Nghị quyết số 57 ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị "Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia" đã yêu cầu "cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực, sự đột phá phát triển khoa học công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và

... chuyển đổi số (CĐS) để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới". Nguồn xung lực đột phá đó cần bắt đầu từ việc thúc đẩy động lực của bản thân những người làm KH&CN.
 
leftcenterrightdel
Gian hàng của Viettel về chuyển đổi số tại Sơn La. 
 
Có ba loại động lực cơ bản hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, đó là: tinh thần, môi trường làm việc và vật chất.

Động lực tinh thần

Do đặc thù nghề nghiệp, nhà khoa học tìm thấy trong lao động sáng tạo không chỉ nguồn phúc lợi vật chất mà cả sự thỏa mãn thẩm mỹ nghề nghiệp, và vế thứ hai đôi khi lại quan trọng hơn. Hiện nay ‘nghề’ làm khoa học còn chưa được xã hội đánh giá đúng, đánh giá cao, chưa thực sự được xã hội trọng thị, ghi nhận và tôn vinh.
 
Để có động lực tinh thần, nhà khoa học cần được xã hội hiểu đúng, đánh giá đúng những cống hiến của họ cho đất nước, được lãnh đạo tin dùng và trọng thị. Cách đánh giá cán bộ khoa học của chúng ta dường như chưa chấp nhận và tôn vinh các nhà khoa học tài năng có cá tính, có chính kiến. Kapitsa1, nhà vật lý lỗi lạc người Nga, đã viết trong một bức tâm thư gửi Khrusốp (khi ấy đang là Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô) vào năm 1961, giải thích lý do vì sao Liên Xô sau này không có được những người ‘khổng lồ’ như Lômônôxốp, Puskin, Liev Tonstoi, Traiacôpxki, Aivadôpxki, Mendeleev, ... mà nước Nga trước đó đã sinh ra: “Nếu chúng ta chỉ cần một xã hội biết vâng lời, chứ không biết chấp nhận những cá nhân có chính kiến thì làm sao có được nhân tài?”
 
Có nhiều con đường để canh tân đất nước; nhưng không con đường nào thiếu vắng tầng lớp trí thức, những con người có trình độ chuyên môn cao, ‘tầm’ văn hóa rộng, kiến thức xã hội uyên thâm; họ là những người có khí tiết, thẳng thắn, cương trực, biết chấp nhận sự thật, dám nói ra những điều nhiều người né tránh, thậm chí là chỉ dám nghĩ thầm. Vì vậy, người lãnh đạo cần biết lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói của các nhà trí thức, nhà khoa học. Nhà báo Hữu Thọ đã viết trong một bài báo, đại ý: “Muốn nghe được lời nói thật là phải công phu lắm, phải thành tâm lắm. Hãy rửa tai để nghe lời nói thật vì không có lời nói thật nào mà không có vị chua chát. Để bệnh nói dối tràn lan chủ yếu là tại người nghe”2. Biết nghe lời nói thật thì mới mong làm nên đại nghiệp, thời nào cũng thế!

Môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp

Thiếu môi trường học thuật lành mạnh và chuyên nghiệp, hệ thống các cơ sở nghiên cứu sẽ bị xơ cứng bởi cơ chế hành chính hóa, đồng thời là mảnh đất nảy sinh các tiêu cực. Một môi trường như vậy sẽ không tạo thuận lợi cho sự ra đời các phát minh, sáng chế, và khó mà có ĐMST. Theo GS. Trương Duy Nghênh (Đại học Bắc Kinh), không có tự do nghiên cứu thì không có ĐMST3, quan điểm này được đông đảo giới nghiên cứu khoa học thừa nhận.
 
Vì vậy, cần tạo lập môi trường làm việc giảm thiểu yếu tố hành chính, đề cao tự do nghiên cứu và cởi mở trong các mối quan hệ; bỏ qua các cơ cấu hành chính rườm rà và thủ tục quan liêu để giúp nghiên cứu “cất cánh”. Đó là nơi thước đo quan trọng nhất, nếu không muốn nói là duy nhất, là các sản phẩm trình làng của nhà khoa học. Đó cũng là nơi các nhà khoa học đầu ngành, người đề xuất ý tưởng và tổ chức nghiên cứu, các nghiên cứu viên (nhiều người trong số họ là các postdoc), các trợ lý nghiên cứu, nhân viên phục vụ và các nghiên cứu sinh cùng làm việc trên tinh thần vừa có tự do sáng tạo, vừa có cạnh tranh lành mạnh, vừa có trách nhiệm công dân.
Các nhà khoa học cần kinh phí nghiên cứu, nhưng trong nhiều trường hợp, tài chính không phải là cái quyết định nhất, mà môi trường làm việc, phương tiện làm việc còn quan trọng hơn. Khi đã có một tập thể khoa học mạnh với môi trường làm việc chuyên nghiệp thì những khó khăn về tài chính sẽ được giải quyết; họ trở nên thân thiện, hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, các quỹ tài trợ nghiên cứu trong và ngoài nước.
 
Môi trường làm việc chuyên nghiệp sẽ tạo ra các nhóm nghiên cứu mạnh và ngược lại: các nhóm nghiên cứu này sẽ tạo ra môi trường làm việc chuyên nghiệp của chính họ, tạo dựng nên uy tín nghề nghiệp của chính họ, tạo nên “văn hóa” của riêng họ, từ đó mà hình thành các trường phái khoa học có tên tuổi. Môi trường tốt sẽ tạo ra tác phong tốt và ý thức tập thể trong nghiên cứu.
 
Cũng từ môi trường nghiên cứu như vậy, sẽ hình thành và phát triển tầng lớp trí thức mới của thời đại mới.
leftcenterrightdel
 
Thiếu môi trường học thuật lành mạnh và chuyên nghiệp, hệ thống các cơ sở nghiên cứu sẽ bị xơ cứng bởi cơ chế hành chính hóa, đồng thời là mảnh đất nảy sinh các tiêu cực. Một môi trường như vậy sẽ không tạo thuận lợi cho sự ra đời các phát minh, sáng chế, và khó mà có ĐMST.



Đầu tư cho KH&CN

Để đầu tư cho KH&CN hiệu quả, có mấy vấn đề sau cần quan tâm:
 
(i) Đầu tư trực tiếp cho nhà khoa học
 
Các quỹ KH&CN cần đủ quy mô, đảm bảo minh bạch trong quản lý, và thực sự hoạt động hoàn toàn theo cơ chế quỹ.
 
Trên thế giới, cùng với các quỹ tài trợ trực tiếp cho KH&CN và phát triển công nghệ, để nuôi dưỡng, hỗ trợ và khuyến khích KH&CN, các nước đều có các quỹ Fellowship dành cho các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, ví dụ như NHMRC4, ARC5 của Úc, NRF6 của Mỹ, DFG7 của Đức, RRF8 của Thái, MEXT9của Nhật, v.v… một số nước còn có quỹ riêng hỗ trợ nghiên cứu sinh tiến sỹ làm nghiên cứu, như The National Science Foundation Graduate Research Fellowship Program (NSFGFP) của Mỹ, Royal Golden Jubilee (RGJ), Doctoral Fellowship Program của Bộ Giáo dục Thái Lan, v.v…
 
Việc phân phối kinh phí nghiên cứu dựa vào tiêu chí duy nhất là chất lượng nghiên cứu trước đó của nhà khoa học và các sản phẩm tiềm năng sau nghiên cứu. Thường, các quỹ này do một Hội đồng các nhà khoa học điều hành độc lập, nhà nước không can thiệp vào. Tuy nhiên cũng có nước, nhà nước quản lý và điều hành một số quỹ KH&CN, tùy theo nội dung và mục đích của quỹ. Ở một số trường đại học của Nhật như Ritsumeikan còn có một thứ quỹ đặc biệt để khuyến khích KH&CN gọi là Matching Funds (Kinh phí đối ứng), dành cho những người đã được nhận kinh phí nghiên cứu từ một quỹ khác, như một sự thưởng thêm kinh phí cho nhà nghiên cứu.
 
Nước ta cũng đã có Quỹ KH&CN Quốc gia (như trường hợp Nafosted) và các chương trình học bổng cho nghiên cứu sinh như các đề án 322 hay 911. Việc quản lý và vận hành các quỹ này rất cần được bàn thảo kỹ lưỡng để tổ chức và vận hành hoàn toàn theo cơ chế quỹ, có thể tồn tại và hoạt động độc lập, đảm bảo xét duyệt khách quan, trung thực, dựa trên các tiêu chí minh bạch và khả tín. Hoạt động của các đề án 322, 911, Nafosted, cùng với định hướng chiến lược về KH&CN cũng cần phải nằm trong định hướng của nhà nước về đào tạo đại học.
 
(ii) Đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các phòng thí nghiệm
 
Không vì sự lãng phí về xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm trong thời gian qua mà chúng ta không tiếp tục đầu tư xây dựng thêm các phòng thí nghiệm mới ngang tầm nhiệm vụ, đồng thời nâng cấp và hoàn thiện các phòng thí nghiệm đang có nếu như chúng có tiềm năng và tạo ra sản phẩm ‘trình làng’. Hiện nay, chúng ta đã có một số phòng thí nghiệm được trang bị khá, có khả năng thực hiện một số nghiên cứu đòi hỏi trang thiết bị ngang tầm quốc tế, nhưng có thể do chưa đồng bộ nên chỉ mới khai thác được một phần công suất, và chưa sản sinh ra được những công trình nghiên cứu đỉnh cao.
 
Cùng với gửi người đi đào tạo, nhà nước còn rất cần đầu tư có trọng điểm và dứt điểm để xây dựng cơ sở đào tạo - nghiên cứu trong nước và mời chuyên gia nước ngoài, nhất là Việt kiều, đến làm việc ở các phòng thí nghiệm này. Thành tích của chương trình gửi người đi đào tạo ở các nước phát triển (như chương trình 20.000 tiến sỹ, 322, 911, v.v...) không phải là những tấm bằng tạo ra, mà quan trọng hơn là cần tạo ra môi trường làm việc chuyên nghiệp với các trang thiết bị nghiên cứu mạnh và đồng bộ trong các cơ sở nghiên cứu, để những tiến sỹ này sau khi về nước có thể tiến hành các nghiên cứu áp dụng những kiến thức và kĩ năng họ đã học được ở nước ngoài vào thực tiễn Việt Nam.
 
(iii) Quản lý và phân bổ kinh phí KH&CN
 
Như trên đã trình bày, nhất thiết phải quản lý ngân sách KH&CN theo quỹ. Có thể có hai loại quỹ: quỹ do nhà nước quản lý và quỹ do cộng đồng các nhà khoa học tự quản lý. Quỹ do nhà nước quản lý phân bổ kinh phí theo các định hướng mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của các chương trình phát triển KH&CN quốc gia và của từng ngành. Quỹ do cộng đồng các nhà khoa học quản lý có xu hướng chú trọng các vấn đề học thuật và hội nhập. Việc cấp kinh phí của cả hai loại quỹ này hỗ trợ lẫn nhau và chỉ dựa vào hiệu quả hoạt động. Việc quản lý và phân bổ kinh phí được tiến hành công khai, công bằng và minh bạch, trừ những vấn đề thuộc bí mật nhà nước.
 
Cơ chế quản lý tài chính cho KH&CN của chúng ta cần thay đổi tư duy làm KH&CN theo kiểu “ăn đong”, nơi nhà khoa học chạy đề tài theo những dự án ngắn hạn dễ có cửa xin kinh phí. Có người gọi đó là nền KH&CN giải ngân, vì giải ngân xong là coi như công việc KH&CN và phát triển CN đã hoàn thành (?). Lề thói quản lý tài chính như thế sẽ khiến nền KH&CN nước nhà không thể ‘cất cánh’ được, tạo ra những nghiên cứu hời hợt, mang tính hình thức và dễ nảy sinh tiêu cực
 
Nhà nước nên dựa vào tiêu chí đánh giá hiệu quả sản phẩm đầu ra của tổ chức nghiên cứu để đặt hàng, giao nhiệm vụ với cam kết họ phải có khám phá mới, phát minh mới, sáng chế mới, sản phẩm mới. Kinh phí cần đủ lớn và giao “một cục” (block grants), không cấp theo cách chi theo hạng mục (line-iterms) như với các đơn vị hành chính-sự nghiệp; cấp theo chu kỳ năm năm một lần, bên cạnh các đề tài “ngoài nhà nước” mà các nhóm có được. Trưởng nhóm, hiệu trưởng hay Viện trưởng có toàn quyền sử dụng kinh phí này cho KH&CN và phát triển công nghệ. Ở nhiều nước, nhà nước chỉ cấp kinh phí tối thiểu khởi đầu (seed money) khoảng 1/3-2/3, quỹ KH&CN của cơ sở nghiên cứu cấp vốn đối ứng (matching funds) khoảng 1/4-1/3 tổng kinh phí đề xuất; còn lại, nhóm phải tự tìm kiếm kinh phí từ các nguồn tài trợ hợp pháp khác.
 
Không ở đâu cần đến sự trung thực và minh bạch như trong KH&CN. Quá trình thực hiện một nhiệm vụ KH&CN từ đề xuất nhiệm vụ của các nhà KH đến giao đề tài, cấp phát kinh phí, nghiệm thu, đánh giá, thanh quyết toán… đều phải được thực hiện qua cổng thông tin quốc gia về KH&CN, theo như cách người dân nộp hồ sơ xin cấp “sổ đỏ” hiện nay. Như vậy, người có quyền ra quyết định không thể gian lận. Nếu đề xuất có sự trùng lặp với các đề xuất trước đó, hệ thống sẽ thông báo chi tiết ngay về sự trùng lặp, theo như cách tra đạo văn. Tùy theo từng lĩnh vực, nhà nước ban hành các ngưỡng cho phép của sự trùng lặp, nếu có. Khi cần, có thể thành lập hội đồng song hành độc lập cho việc thẩm định và đánh giá một nhiệm vụ, một hội đồng trong nước và một hội đồng ở nước ngoài như cách mà dự án FIRST của Ngân hàng Thế giới đã làm với Bộ KH&CN trước đây.
 
Ứng dụng sâu rộng chuyển đối số trong việc nhận đề xuất, thẩm định, giao nhiệm vụ, nghiệm thu, đánh giá10, thanh quyết toán sẽ góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn lợi ích nhóm và hiện tượng chạy đề tài hiện còn khá phổ biến. Quản lý theo lối vừa hành chính vừa thủ công như hiện nay đã làm mỏi mệt và chùn bước không ít nhà khoa học chân chính. Cũng nên biết là, với khoảng 2.000 đề tài, dự án được thực hiện hằng năm, trường Đại học Louvain (Bỉ), chỉ cần có một kế toán11; trong khi ở Việt Nam hiện nay, một đề tài độc lập cấp nhà nước có kinh phí khoảng 4-5 tỷ cũng cần đến 1-2 kế toán!

***
Việt Nam đang trên con đường chuyển đổi sang mô hình kinh tế dựa vào tri thức và đổi mới sáng tạo. Quá trình chuyển đổi đúng đắn đó chỉ có thể bắt nguồn từ đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, trong đó có các lĩnh vực cốt lõi của chuyển đổi số.
 
Nền KH&CN, ĐMST chúng ta dù đã có những thành tựu to lớn và đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, nhưng thực sự là còn non yếu. Chính sách KH&CN phải lấy việc phát triển đội ngũ và môi trường học thuật lành mạnh làm cứu cánh, việc tạo ra các sản phẩm kinh tế cụ thể chỉ nên xem là phương tiện. Chỉ đến khi đội ngũ và môi trường học thuật đạt đến khối lượng tới hạn, KH&CN mới phát triển tự nhiên trong mối tương hỗ với giáo dục, văn hóa và sản xuất, nghĩa là bắt đầu trở thành động lực phát triển thực sự cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội.

GS. TS Trần Đức Viên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam


(1) Pyotr Leonidovich Kapitsa(Пётр Леонидович Капица): Nhà văn, nhà vật lý học Nga; ông nhận giảiNobel Vật lýnăm1978cho những đóng góp trong vật lý nhiệt độ thấp.
(2) https://dantri.com.vn/blog/hay-rua-tai-de-duoc-nghe-loi-noi-that-1315802819.htm
(3) Trương Duy Nghênh (Zhang Weiying张维迎), Giáo sư Kinh tế Đại học Bắc Kinh, đồng sáng lập Viện Nghiên cứu Phát triển Quốc gia, nguyên Giám đốc Học viện Quản lý Quang Hoa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Mạng; https://nghiencuuquocte.org/2019/01/14/khong-co-tu-do-tu-tuong-thi-khong-the-co-sang-tao/
(4) The national grant funding program supports the best Australian health and medical research and researchers.
(5) Australian Research Council
(6) National Research Foundation
(7) Deutsche Forschungsgemeinschaft
(8) Research and Resources Foundation
(9) Chương trình học bổng Monbukagakusho và nghiên cứu khoa học – MEXT.
(10) Ngay việc nghiệm thu, đánh giá cũng nên xem xét lại, điều đó có cần thiết ko, có bị ‘hành chính hóa’ ko, một khi chúng ta đã tiếp nhận các sản phẩm của đề tài, dự án theo KPIs.
(11) https://nongnghiepmoitruong.vn/khoa-hoc-giai-quyet-van-de-lon-cua-dat-nuoc-chu-khong-phai-noi-dung-dang-dung-de-d238829.html
Bài đăng KH&PT số 1357 (số 33/2025)