Nghề nuôi tôm chân trắng đã trở thành một nghề đem lại nguồn thu nhập cho người dân ven biển khu vực miền Bắc, sau khi đối tượng này được cho phép nuôi ở Việt Nam. Theo quy hoạch của các tỉnh miền Bắc, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng sẽ không tăng sau năm 2030, trong khi mục tiêu sản lượng vẫn tăng. Đây là thách thức lớn đối với khu vực miền Bắc, đòi hỏi sự chuyển đổi hình thức nuôi sang thâm canh và quy trình công nghệ nuôi mới, tăng cả số vụ nuôi lẫn năng suất nuôi một cách bền vững. Một trong những giải pháp đang được Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu và thử nghiệm là ương nuôi tôm trong nhà (ISPS).

leftcenterrightdel
 

Bể ương tròn nổi của trại tôm anh Đỗ Mai Huy, Hải Phòng, nhận chuyển giao thành công quy trình ương tôm ISPS

1.  Chuẩn bị hệ thống và nước

Trước khi thả giống 7-10 ngày, chuẩn bị bể 80 m3. Cọ bể bằng búi chà và xà phòng. Tráng lại bể bằng nước axit oxalic. Chuẩn bị dây khí và quả đá khí. Chuẩn bị bể lọc sinh học với giá thể hạt nhựa MBBR. Rửa các vật dụng này bằng axit oxalic. Chuẩn bị máy thổi khí, bình oxy, máy tạo vi bọt khí, đèn UV.

Nước được bơm qua bể lọc cát ngầm. Diệt khuẩn liều 30 ppm chlorine, sau đó 24h, trung hòa bằng natri thiosulfat. Sử dụng test kit để kiểm tra dư lượng chlorine. Chạy hệ thống tuần hoàn. Bổ sung vi sinh Bacillus spp. sau khi đã tăng sinh với đường hoặc mật rỉ 12-24h. Bổ sung 10 L EM và 10 L vi khuẩn tía vào bể lọc sinh học. Bổ sung 20 L tảo silic vào buổi sáng trước ngày nhận giống nếu có.

Vi khuẩn Bacillus spp. được nhân sinh khối như sau: 200 L thùng phuy nhựa, 150L nước sạch, 10L mật rỉ đường, 500 g chế phẩm, 20-50 g men bánh mỳ, 30-100 g vitamin+khoáng. Có thể bổ sung 500 mL nước dứa ép nếu có. Chế phẩm EM và vi khuẩn tía được nhân sinh khối như sau: 200L thùng phuy nhựa, 190 L nước, 5 L mật rỉ đường, 10L EM1 và 10L vi khuẩn tía và 100 g men bánh mỳ, 30 g vitamin + khoáng. Có thể bổ sung 50 g thức ăn hoặc bột cá.

2.  Tôm giống

Tôm giống có nguồn gốc và được kiểm tra sạch một số bệnh. Tôm giống được đánh giá chất lượng theo các chỉ tiêu cảm quan, màu sắc, chiều dài thân, trạng thái hoạt động, ruột, và sốc ngọt. Trước khi thả giống, tạt vitamin C vào bể để giảm stress cho tôm. Sau khi ngâm túi tôm giống trong bể 20-30 phút để nhiệt độ nước trong túi tôm cân bằng với nhiệt độ nước bể thì có thể thả tôm giống. Lượng tôm giống là 20 – 22 vạn/bể.

3.  Thức ăn và quản lý thức ăn

Trong 10-15 ngày đầu tiên, thức ăn sử dụng là thức ăn cao đạm dạng bột, vảy và bột krill (ví dụ: Lansy Shrimp PL, P. japonicus, Krillflakes). Cho ăn 4 bữa/ngày vào lúc 6, 10, 14, và 18h. Artemia bung dù được cho ăn ngay sau khi cho ăn thức ăn công nghiệp 20-30 phút để tôm nhỏ có thể bắt mồi. Ban đầu cho ăn thức ăn tổng hợp 0,5 kg/bữa/bể. Sau 1-2 tiếng mỗi bữa, kiểm tra lượng thức ăn thừa trên lưới lọc và quyết định tăng hay giảm lượng thức ăn (mỗi lần điều chỉnh 5% khối lượng thức ăn bữa trước). Sau 10-15 ngày, bắt đầu sử dụng thức ăn Grobest số 01 và ngưng sử dụng artemia bung dù. Thức ăn này được ủ trước với hỗn hợp EM, vi khuẩn tía, nấm men, và thảo dược bổ gan (5-20mL/100g thức ăn) trong 12-24h. Chú ý vẫn cho ăn kèm thức ăn cao đạm với thức ăn số 01. Tỉ lệ giữa thức ăn cao đạm và thức ăn số 01 giảm dần từ 9:1 tới 1:9. Sau khi thấy toàn bộ tôm có thể ăn thức ăn số 01 thì dừng cho ăn thức ăn cao đạm.

4.  Quản lý môi trường nước

Các chỉ tiêu độ mặn, nhiệt độ và oxy hòa tan được đo hàng ngày và chỉ tiêu pH được đo 2 lần/ngày bằng máy đo các yếu tố môi trường đa năng Aqua TROLL 500 (In-situ, Mỹ). Các chỉ tiêu kiềm, tổng ammonia (TAN) và NO2 được đo 3 ngày/lần bằng kit Sera. Các chỉ tiêu Mg và Ca được đo 7 ngày/lần bằng kit Sera. Hệ thống sục khí và nâng oxy được chạy 24/24h, duy trì DO > 6ppm. Vi khuẩn có lợi được bổ sung với hai loại yếm khí và hiếu khí. Vi khuẩn hiếu khí dạng bột được sục khí trong nước biển lọc trong 24h trước khi sử dụng với lượng 50g/ngày (chứa các chủng Bacillus spp với lượng tối thiểu 1×109 cfu/g). Chế phẩm vi sinh yếm khí dạng lỏng (EM, vi khuẩn tía, men bánh mỳ) được bổ sung trực tiếp hàng ngày với lượng 10-20 L/ngày. Khoáng được bổ sung định kỳ 2 ngày/lần với lượng 0,1-0,5 kg/ngày, tăng dần theo thời gian.

·   Điều chỉnh độ kiềm trong bể ương

Hàng ngày kiểm tra độ kiềm trong ao nuôi bằng test, rồi từ đó có thể sử dụng lượng khoáng tổng hợp cho phù hợp. Độ kiềm trong nước được duy trì trong khoảng 100 -160 ppm. Tạt khoáng lúc tối khoảng 20h liều lượng 0,01-0,15kg/1m3 nước. Khoáng tổng hợp này gồm 2 loại :

·   Loại 1: gồm những hợp chất của Mg2+, Ca2+, K+, để tôm có thể sử dụng khoáng chất này cho đời sống sinh trưởng và phát triển của mình. Nhanh tái tạo lại lớp vỏ chitin sau khi tôm lột xác.

·   Loại 2: gồm có 2 loại SODA nóng và lạnh, để nâng độ kiềm.

·   Điều chỉnh pH trong nước

Cũng như kiềm, pH được kiểm tra hàng ngày và được kiểm soát trong ngưỡng thích hợp từ 7-8. Sau khi sử dụng khoáng pH sẽ có sự biến động tăng dần, nên sau khi đánh khoáng thì bổ sung thêm vi khuẩn Bacillus spp. vào buổi tối để cân bằng lại pH trong nước.

·   Điều chỉnh NH3/NH4, NO2

NH3 và NO2 là hai loại khí gây độc cho tôm trong bể ương nên phải được quản lý chặt chẽ. Duy trì TAN < 1 ppm và NO2 < 0,5 ppm. Hai khí này chủ yếu được sinh ra từ chất thải của tôm lắng xuống nền đáy và tạo nên, 1 phần cũng do các sinh vật chết lắng xuống đáy và tạo thành. Hàm lượng khí độc NH3/NH4 và NO2 biến động không nhiều khi được sử dụng vi sinh hàng ngày. Vi sinh thường được sử dụng trong quá trình này là Bacillus spp. từ gói chế phẩm, EM và vi khuẩn tía Rhodobacter spp., Rhodopseudomonas spp. được nhân từ EM gốc và vi khuẩn tía gốc. Tăng liều sử dụng vi sinh gấp đôi nếu TAN và NO2 có dấu hiệu tăng.

·   Quản lý Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong nước bể/ao ương

Phương pháp thu mẫu nước được thực hiện theo TCVN 5998:1995. Tại mỗi bể/ao nuôi, tiến hành thu 1 mẫu nước với tần suất 1 tuần/lần để định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus. Mẫu được bảo quản ở nhiệt độ 4°C và chuyển về Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam hoặc Công ty uy tín trong ngày để định lượng ngay sau đó. Mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus được xác định theo tiêu chuẩn TCVN 8988:2012. Kiểm tra mật độ Vibrio tổng số với vi khuẩn có lợi tuần suất 3 ngày/lần. Nếu kết quả phân tích vi khuẩn Vibrio lớn hơn 1000 cfu/mL thì thay nước 20% mỗi ngày trong 2-3 ngày. Tăng liều sử dụng vi sinh Lactobacillus và Bacillus sp. với liều 200 g/bể/ngày trong 2-3 ngày.

5.   Quản lý sức khỏe tôm

Theo dõi sức khỏe tôm 4 lần/ngày. Dùng vợt hoặc nhá chuyên dụng để thu mẫu tôm. Quan sát màu sắc của vỏ, ruột, và gan tụy. Tôm khỏe có tuyến gan tụy màu nâu sáng, kích thước khối gan tụy bình thường. Tuyến gan tụy của tôm yếu có màu nhợt nhạt (màu vàng, màu đỏ, hoặc màu đen), kích thước khối gan tụy theo lại hoặc mềm nhũn. Đường ruột tôm khỏe đầy thức ăn. Dấu hiệu bất thường là ruột tôm đứt đoạn, đặc biệt phần cuối ruột. Màu sắc của phân tôm phản ánh màu sắc của thức ăn công nghiệp, nếu không chứng tỏ tôm ăn tảo hoặc floc.

·   Định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong gan tụy tôm

Mật độ Vibrio tổng số từ gan tụy của tôm cũng được xác định theo TCVN 8988:2012. Mẫu tôm được thu tại sàng ăn với số lượng 15 con/bể hoặc ao/tuần và được chuyển ngay về phòng thí nghiệm. Đối với tôm nhỏ, toàn bộ tôm được nghiền để đồng nhất mẫu; đối với tôm lớn, khối gan tụy được lấy và nghiền trong điều kiện vô khuẩn. Tiến hành lấy 0,1g và pha loãng theo dãy nồng độ để định lượng vi khuẩn. Phương pháp định lượng được thực hiện theo TCVN 8988:2012.

Một số tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quy trình ương tôm trong nhà là:

– Kiểm soát nhiệt độ: Do bể đặt trong nhà kính cùng với hệ thống nâng nhiệt nên có khả năng kiểm soát nhiệt độ tốt, giảm ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ không khí giữa ngày và đêm, gió mùa Đông Bắc, mưa bão. Có thể thực hiện ương tôm vào bất kỳ thời gian nào.

– Hệ thống lọc tuần hoàn: Các giá thể hạt nhựa làm nơi bám của các vi khuẩn tự dưỡng, chuyển hóa NH4+ thành NO3.

– Quản lý hệ vi sinh theo chiến lược K: Sử dụng kết hợp chế phẩm EM, vi khuẩn tía, nấm men và Bacillus sp. ở liều cao làm đa dạng hệ vi sinh trong điều kiện ít dinh dưỡng, hạn chế sự phát triển của Vibrio và làm nước ‘chín’, tăng khả năng kiểm soát các khí độc.

– Hệ thống UV: Giảm lượng Vibrio trước khi nước tuần hoàn lại bể ương

– Phương thức cho ăn: Sử dụng cám chất lượng cao nhiều kích cỡ, kết hợp Artemia bung dù sau bữa ăn thức ăn tổng hợp giúp tôm bé có thể bắt kịp với tôm lớn, giảm độ phân đàn sau giai đoạn ương. Ủ lên men thức ăn với EM, vi khuẩn tía, và nấm men trước khi cho ăn 12h giúp tăng cường sức khỏe đường ruột và phòng chống nhiễm khuẩn Vibrio gan tụy.

– Hệ thống lọc lưới micron: Liên tục tách phân và chất rắn lơ lửng ra khỏi hệ thống, giảm lượng hữu cơ tích tụ liên tục.

– Hệ thống vi bọt khí: Nâng hàm lượng oxy hòa tan khi sử dụng hệ thống vi bọt khí. Nước sau khi qua hệ thống sẽ có hàm lượng DO > 20 ppm.

– Cân bằng các chu trình chuyển hóa nitơ: quang dưỡng, tự dưỡng, và dị dưỡng trong suốt quá trình ương nhờ liên tục bổ sung EM, vi khuẩn tía, nấm men, và Bacillus sp. Vi khuẩn tự dưỡng được duy trì nhờ hệ thống lọc sinh học MBBR để hoàn thành chu trình NH4+ -> NO2 -> NO3. Vi khuẩn Bacillus được sử dụng trong ao dưới dạng vi khuẩn dị dưỡng khi bổ sung mật rỉ đường để nhanh chóng chuyển hóa NH4+ thành sinh khối floc. Tảo được kiểm soát ở mật độ vừa phải để thực hiện chu trình quang dưỡng NO3 -> sinh khối tảo.

Lê Việt Dũng, Trương Đình Hoài, Đoàn Thị Nhinh

Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam