Nghiên cứu khoa học là sức sống của trường đại học
Mang sứ mệnh đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu phát triển và chuyển giao khoa học công nghệ, tri thức mới trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam là một trong những trường đại học trọng điểm quốc gia, trường đại học hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp. Học viện xác định nghiên cứu khoa học là nền tảng, động lực của mọi hoạt động trong trường đại học. Khi thực hiện tốt nghiên cứu khoa học sẽ giúp nâng cao trình độ và chất lượng của giảng viên, nhà khoa học cũng như sinh viên Học viện.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam xác định nghiên cứu khoa học là sức sống của trường đại học
Hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học của cán bộ trẻ, giảng viên trẻ, sinh viên luôn được Học viện Nông nghiệp Việt Nam quan tâm và triển khai đồng bộ, toàn diện từ cấp cơ sở đến cấp Học viện. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, tuổi trẻ Học viện đã phát huy được trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng tiếp cận và từng bước làm chủ khoa học công nghệ ở các cương vị công tác.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của các cán bộ, giảng viên trẻ và sinh viên luôn được Học viện quan tâm và triển khai đồng bộ, toàn diện từ cấp cơ sở đến cấp Học viện
Bên cạnh đó, hoạt động này cũng giúp thế hệ trẻ có phương pháp tư duy, tác phong khoa học, nâng cao trình độ và năng lực công tác chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong toàn Học viện. Theo số liệu thống kê, hiện nay có trên 80% cán bộ, viên chức Học viện tham gia nghiên cứu khoa học. Nhà trường đã phát triển nguồn lực chất lượng cao, cơ sở vật chất đồng bộ và hiện đại với nhiều phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO.
Các mô hình khoa học công nghệ được Học viện chú trọng xây dựng và phát triển
Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ sinh học Thú y đạt chuẩn ISO 17025:2005
Số lượng các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và kinh phí phục vụ cho nghiên cứu khoa học của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng tăng dần qua các năm. Từ 500 nhiệm vụ giai đoạn 2000-2005 lên đến 1.067 nhiệm vụ giai đoạn 2011-2015, với tổng kinh phí 306,2 tỷ đồng. Trong đó, nhiệm vụ khoa học cấp Nhà nước là 43, cấp Bộ 127, Hợp tác quốc tế 17, Địa phương 55 và cấp Cơ sở 825 nhiệm vụ.
Học viện cũng tham gia chủ trì và tham gia một số chương trình trọng điểm Quốc gia như: Chương trình KH-CN phục vụ xây dựng nông thôn mới; Chương trình KH-CN phát triển vùng Tây Bắc; Chương trình vắc-xin; Chương trình sản phẩm quốc gia: Lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, sữa và thịt bò...
50 nhóm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đầu ngành
Hiện nay, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đang có 50 nhóm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đầu ngành, với nhiều hướng nghiên cứu thiết thực trong chăn nuôi, thú y, thiết kế công cụ nông nghiệp; hơn 80 mô hình nghiên cứu phục vụ đào tạo và chuyển giao cùng hàng trăm nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín. Các nghiên cứu của Học viện không những góp phần vào giải quyết các vấn đề của ngành, phục vụ đào tạo mà còn góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại các địa phương.
Các quy trình kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật và bằng bảo hộ độc quyền giải pháp hữu ích, KIT chẩn đoán nhanh bệnh tai xanh trên lợn tại Việt Nam (2-5 phút), vắc-xin tai xanh vô hoạt nhũ dầu, vắc-xin care phòng bệnh sài sốt chó, vắc-xin dịch tả vịt… Và phải kể đến công trình mới nhất của các nhà khoa học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam khi đã giải trình tự thành công gene của virus Dịch tả lợn châu Phi, tạo bước đột phá quan trọng để nghiên cứu tạo KIT chẩn đoán bệnh, sản xuất vắc-xin phòng bệnh nguy hiểm này với ngành chăn nuôi Việt Nam.
Những thành công bước đầu của vắc-xin vô hoạt Dịch tả lợn châu Phi do các nhà khoa học Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu
Trong những năm qua, Học viện đã triển khai hơn 50 dự án, mô hình KH-CN tại nhiều địa phương như Hòa Bình, Phú Thọ, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Lào Cai, Bắc Ninh, Bắc Giang, Điện Biên, Nghệ An, Nam Định, Yên Bái, Bắc Kạn, Thanh Hóa…
Tại Hà Nội, mô hình ứng dụng máy gặt đập mini, hệ thống máy canh tác đồng bộ khoai tây, mô hình trồng chuối tây lai, trồng hoa cúc vạn thọ lùn… được triển khai và nhận được sự tiếp nhận của bà con nông dân.
Tại Hà Nam, mô hình sản xuất rau hữu cơ, mô hình chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học, mô hình xử lý chất thải chăn nuôi, mô hình sản xuất hạt giống lúa lai… được triển khai tại địa phương này.
Tại Bắc Ninh, Học viện đã triển khai mô hình đánh giá hiệu quả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ xây dựng nông thôn mới và đề xuất giải pháp, mô hình sản xuất khoai tây giống, mô hình sản xuất giống lúa mới…
Tại Bắc Giang, Học viện đã nghiên cứu và phát triển bưởi Diễn tại Hiệp Hòa, xây dựng vườn cây đầu dòng cho các cây ăn quả, xây dựng mô hình sản xuất cà chua, dưa chuột và na phục vụ chế biến và xuất khẩu, xây dựng mô hình chăn nuôi lợn chất lượng cao…
Tại Phú Thọ, Học viện nghiên cứu chính sách bảo hiểm cho người trồng chè, chuyển giao công nghệ chế biến và sản xuất phân bón lá Pomior…
Ngoài mô hình KH-CN được triển khai tại các địa phương, các công trình nghiên cứu của Học viện cũng được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất như: giống lúa thuần, giống lúa lai, giống cà chua, ngô, đậu tương, phân viên nén, hoa hồng, hoa hiên, hoa lan huệ...
Các công trình khoa học được Học viện chuyển giao công nghệ thành công đã giúp địa phương tiếp nhận, làm chủ công nghệ để giải quyết các vấn đề cơ bản về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng giống cây trồng, vật nuôi có năng suất.