Trong những năm gần đây, cá Nheo Mỹ (Ictalurus punctatus Rafinesque, 1818) đã trở thành loài nuôi chủ lực tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam, nhờ khả năng thích nghi tốt với nhiều điều kiện môi trường và hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, hình thức nuôi trong lồng trên sông và hồ đang phát triển mạnh, tạo tiền đề cho ngành thủy sản công nghiệp tại khu vực này. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng quy mô nuôi, dịch bệnh cũng xuất hiện nhiều hơn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả sản xuất.

Gần đây, tại nhiều vùng nuôi trọng điểm ở miền Bắc như Thái Bình, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái,... hiện tượng cá Nheo Mỹ xuất hiện các đốm trắng trong nội quan như gan và thận ngày càng phổ biến (Vũ Đức Mạnh & cs., 2022). Các đốm trắng có kích thước tương đồng từ 2,0 – 2,5 mm, nổi rõ trên bề mặt cơ quan nội tạng và được ghi nhận gây chết rải rác, thậm chí lên đến 70% số lượng cá trong trường hợp môi trường biến động mạnh (Bùi Ngọc Thanh & cs., 2016).

Theo kết quả phân tích hình thái và giám định sinh học phân tử, tác nhân gây bệnh được xác định là ấu trùng sán lá Dollfustrema bagarii (Kim Văn Vạn & cs., 2022). Loài sán này có vòng đời gồm 6 giai đoạn, với giai đoạn cercaria là ký sinh bắt buộc trên nhuyễn thể (loài hà bám tại lồng nuôi). Đây là thách thức khiến việc phòng chống bệnh chưa hiệu quả, nhất là trong điều kiện môi trường hở của hệ thống nuôi lồng.

leftcenterrightdel
Hà bám ở các dây lồng thu được 

Hiểu sai về bệnh khiến điều trị kém hiệu quả

Một thực trạng đáng lo ngại là nhiều hộ nuôi cá Nheo Mỹ chưa nhận diện đúng nguyên nhân, dẫn đến áp dụng các biện pháp điều trị không phù hợp. Trong nhiều trường hợp, người nuôi nhầm lẫn triệu chứng đốm trắng với bệnh do vi khuẩn nên việc dùng kháng sinh không mang lại hiệu quả. Thêm vào đó, hiện tượng bội nhiễm vi khuẩn thường xảy ra khi cá bị tổn thương do ký sinh trùng, làm tình hình trở nên phức tạp và gây thiệt hại lớn (Kim Văn Vạn & cs., 2023). Đáng chú ý, cá bị bệnh thường bỏ ăn gây ra khó khăn cho điều trị, kéo theo chi phí tăng cao mà hiệu quả lại thấp. Trước thực tế này, các chuyên gia thủy sản khuyến cáo người nuôi cần ưu tiên “chữa bệnh” hơn “phòng bệnh”. Việc chủ động quản lý sức khỏe cá, kiểm soát mầm bệnh và môi trường nuôi là hướng đi lâu dài, thay vì chỉ dựa vào thuốc và hóa chất – những giải pháp dễ thực hiện nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro sinh thái.

Giải pháp an toàn sinh học mang lại hiệu quả rõ rệt

Trước những thách thức từ thực tiễn, một nghiên cứu thực nghiệm đã được triển khai tại Thái Bình từ tháng 12/2023 đến tháng 06/2024 nhằm đánh giá hiệu quả của một số biện pháp phòng bệnh cho cá Nheo Mỹ. Các biện pháp thí nghiệm bao gồm: Thả ghép cá Trắm đen để ăn hà – sinh vật trung gian truyền bệnh; Đặt bẫy hà trong lồng để kiểm soát mật độ ký chủ trung gian; Treo viên nén chậm tan TCCA (Trichloroisocyanuric acid) nhằm khử trùng nguồn nước; Vệ sinh lồng định kỳ.

leftcenterrightdel
 

Kết quả thu được từ thí nghiệm cho thấy hai biện pháp sinh học là thả ghép cá Trắm đen và đặt bẫy hà có hiệu quả vượt trội, với sự cải thiện rõ rệt trên cả bốn chỉ tiêu đánh giá gồm: mật độ hà bám, thời điểm xuất hiện bệnh, tỷ lệ cá nhiễm, và cường độ nhiễm ấu trùng sán.

Hướng đi bền vững: Phòng bệnh từ gốc

Nghiên cứu trên một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của kiểm soát sinh học trong nuôi trồng thủy sản bền vững. Việc sử dụng các loài cá ăn ký chủ trung gian như Trắm đen hay thiết lập bẫy hà không chỉ làm giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh mà còn hạn chế sự phụ thuộc vào hóa chất – một vấn đề đang gây nhiều lo ngại trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và kháng thuốc gia tăng. Cùng với đó, việc tăng cường công tác truyền thông, hướng dẫn kỹ thuật chẩn đoán, phòng bệnh cho người nuôi là yếu tố then chốt để giảm thiểu thiệt hại kinh tế và duy trì năng suất cao. Đây không chỉ là bài học riêng cho cá Nheo Mỹ mà còn mang tính chất tổng quát cho nhiều loài nuôi công nghiệp khác ở Việt Nam.

Chủ động là chìa khóa chống dịch bệnh

Sự xuất hiện và lan rộng của bệnh đốm trắng do ấu trùng Dollfustrema bagarii trên cá Nheo Mỹ là lời cảnh báo nghiêm túc đối với ngành nuôi thủy sản phía Bắc. Đã đến lúc người nuôi cần thay đổi cách tiếp cận, từ chữa bệnh thụ động sang chủ động phòng ngừa, lựa chọn các giải pháp sinh học thân thiện với môi trường và tăng cường kiến thức thực tiễn. Chỉ khi đó, ngành nuôi cá Nheo Mỹ mới có thể phát triển ổn định, hiệu quả và bền vững trong dài hạn.

Vũ Đức Mạnh – NCM Bệnh Thủy sản, Khoa Thủy sản

Tài liệu tham khảo:

B. N. Thanh, N. T. Nguyet, N. T. Ha, D. X. Truong, N. V. Ha, and T. T. M. Hanh, “Tác nhân gây bệnh đốm trắng gan thận cá Nheo mỹ (Ictalurus punctatus) nuôi thương phẩm tại khu vực miền Bắc Việt Nam,” (in Vietnamese), In Proc Science and Technology in Aquaculture development, Vietnam Agricultural Publishing House ’6, 2016, pp 311-317.

K. V. Van, N. M. Hung, S. E. Greiman, N. V. Ha, N. N. Chinh, V. D. Manh, T. D. Hoai, and M. Henry, “Molecular and morphological characterization of Dollfustrema bagarii (Digenea: Bucephalidae) metacercariae from aquaculture channel catfish (Ictalurus punctatus) in northern Vietnam,” Journal of Fish Diseases; Vol 45, no. 8, pp1165-1171, 2022.

V. D. Manh, C. D. Quy, T. D. Hoai, and K. V. Van, “The current farming status of cage cultured channel catfish in the north of Vietnam,” (in Vietnamese), Vietnam Science and technology Journal of Agriculture & Rural Development; Vol 18, pp 101–109, 2022.

V. D. Manh, K. M. Anh, N. M. Hung, D. D. Hung, T. D. Hoai, D. T. Lua, and K. V. Van, “White spot disease on internal organs of Channel catfish (Ictalurus punctatus) cage culture in Northern Vietnam caused by metacercaria of Dollfustrema bagarii,” (in Vietnamese), Vietnam Journal of Veterinary Science and Technology;Vol 29, no. 6, pp 62-69, 2022.