Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIV, Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về chính sách chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng 4.0.
Hệ thống photo bioreactor (photo bay reactor) theo công nghệ Isarel tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học vi tảo tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam và hệ thống các bể reway đơn giản có thể phóng to lên để sản xuất trong công nghiệp trong nuôi cấy vi tảo được coi là những ứng dụng thiết thực từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong giáo dục, đẩy mạnh thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ trong cán bộ giảng viên, sinh viên tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả.
Kỹ thuật viên Kim Minh Tuấn, Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học vi tảo, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam, cho biết: Hiện ở Miền Bắc có một số công ty tảo chuyên sản xuất loại vi tảo này để ứng dụng trong việc làm thực phẩm chức năng, làm dược phẩm. Ở hộ gia đình có mô hình với quy mô nhỏ giống như bể kính, bể cá dùng cho một tháng có thể duy trì được. Nhờ áp dụng công nghệ từ Isarel từ hệ thống photo bioreactor (photo bay reactor) nên tảo có năng suất cao, gấp 40-50 lần so với bể.
Thời gian qua, Học viện Nông nghiệp Việt Nam luôn chú trọng tới công tác đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường gắn với chuyển giao cho thực tiễn sản xuất, với hơn 40 ứng dụng tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao cho các địa phương. Điều này thể hiện sự thích ứng kịp thời của Học Viện Nông nghiệp Việt Nam không chỉ trong hoạt động giáo dục trước những biến chuyển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn có ý nghĩa thiết thực đối với các địa phương trong sản xuất nông nghiệp, khơi dậy niềm đam mê của thầy và trò để nghiên cứu, tiếp thu, làm chủ tri thức, sáng tạo công nghệ mới …
|
|
Học viện Nông nghiệp Việt Nam đẩy mạnh nghiên cứu khoa học |
Bà Lê Huỳnh Thanh Phương, Trưởng Ban Khoa học công nghệ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, cho biết: Học viện có những tiến bộ mới, nhất là các giống cây trồng được coi là thế mạnh của Học viện Nông nghiệp Việt Nam như các giống lúa, giống ngô, giống cà chua, giống rau, hoa, quả. Học viện đã chuyển giao xuống các địa phương như Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương. Học viện cũng đã thành lập 5 nhóm nghiên cứu mạnh và có đầy đủ trên lĩnh vực nghiên cứu của Học viện từ nghiên cứu cơ bản tới nghiên cứu ứng dụng hỗ trợ cho sản xuất. Đồng thời xây dựng 82 mô hình khoa học công nghệ đầy đủ trên các lĩnh vực. Từ các mô hình nghiên cứu ,khi thành công sẽ chuyển giao ra sản xuất tại các địa phương trên cả nước như: Quảng Trị, Huế, Nghệ An cũng như 5 tỉnh Tây Nguyên.
Trước tình hình dịch bệnh đang có nhiều diễn biến phức tạp, mới đây, Học viện Nông nghiệp Việt Nam bắt đầu triển khai giảng dạy trực tuyến bằng phần mềm Microsoft Teams để đảm bảo tiến độ học tập cho sinh viên. Sử dụng hình thức giảng dạy trực tuyến vừa là thách thức, vừa là cơ hội để Học viện áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại trên không gian mạng. Đó cũng là cách để nhà trường tạo ra tri thức theo hướng giáo dục mở để sinh viên có thể tiếp nhận tri thức ở bất cứ đâu, thời gian nào; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực đào tạo chất lượng cao.
Sinh viên Nguyễn Thị Nhung bày tỏ: "Nhiều lúc tiếp thu bài giảng trên lớp không quá tập trung, học trực tuyến thế này chúng em có thể xem lại nhiều lần, đầy đủ hơn. Học online tiện lợi, tiếp cận được mọi lúc, mọi nơi. Em cảm thấy rất tiện lợi, cứ rảnh là học được như học trên lớp, khác là không được tiếp cận trực tiếp với các thầy cô."
Giáo dục trực tuyến không những khuyến khích giảng viên sáng tạo, chủ động trong hoạt động giảng dạy mà còn giúp các bạn sinh viên rèn luyện khả năng tự học, điều còn thiếu trong bộ phần giới trẻ hiện nay trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ngày càng mạnh mẽ.
PGS.TS Nguyễn Việt Long, Giám đốc Trung tâm Ươm tạo Công nghệ Nông nghiệp, Học Viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết: Học viện đã thành lập ra nhóm nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo trong việc nghiên cứu về dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo. Nhóm này nòng cốt là các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu được đào tạo từ các nước phát triển, các lĩnh vực cũng như dữ liệu lớn, chuỗi khối và phối hợp với các thầy cô có chuyên môn các ngành kỹ thuật như là khoa học cây trồng, chăn nuôi, quản lý đất đai, thú y… Các nhóm này có nhiệm vụ cùng nhau xây dựng lên các ý tưởng nghiên cứu, cùng xây dựng các dự án ứng dụng công nghiệp 4.0 vào trong đào tạo và thực tiễn sản xuất trong nông nghiệp.
Trong thời đại của sự bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước ta xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của cuôc cách mạng 4.0, công nghệ thông tin cũng như yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức. Ngày nay khi công nghệ càng phát triển thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu, trong đó có lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo.
Xu thế học trực tuyến thông qua ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại hiện được nhiều trường đaị học tại Việt Nam áp dụng, nhằm kết nối cũng như tiệm cận với chương trình học quốc tế. Tại Viện Quản trị và Kinh doanh Công nghệ FSB, hai trên tổng số 15 môn trong tiến trình đào tạo thạc sỹ Quản trị kinh doanh được thiết kế học trực tuyến với chương trình học của các trường hàng đầu ở Mỹ.
Học viên Hoàng Tuyết Lan, Viện Quản trị và Kinh doanh Công nghệ FSB bày tỏ: “Với chương trình online này, tôi được các Giáo sư ở các đại học danh tiếng của Mỹ giảng dạy. Trong các bài giảng, mình cảm thấy rất hữu ích, lời giảng sinh động, trực quan và có những ví dụ cụ thể gắn liền với thực tiễn.”
Nếu như việc giảng dạy trực tuyến đối với các cấp phổ thông chỉ là giải pháp tạm thời, ứng phó khi học sinh phải nghỉ dài ngày trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh Covid-19, thì đối với bậc đại học, cao đẳng, việc tiến tới giảng dạy trực tuyến đã nằm trong kế hoạch của nhiều trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Thông tư 12 vào năm 2016, với nội dung quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng nhằm khuyến khích các trường đại học trên cả nước tự chủ trong đào tạo trực tuyến trong xu thế toàn cầu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng thay đổi phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy đang được đẩy mạnh. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy. Học sinh, sinh viên được quyền chủ động khám phá kiến thức bằng tiện ích mà công nghệ số đem lại. Đây là nền tảng giúp học sinh, sinh viên tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học, nâng cao hiệu quả giảng dạy, học tập. Công nghệ thông tin và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng thể hiện rõ vai trò đối với hoạt động quản lý giáo dục.
|
|
Giáo dục ứng dụng công nghệ thông tin tại trường đại học |
Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với thách thức lớn về thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn, có kỹ năng. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, gây tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong kỷ nguyên số hóa, giáo dục đại học (GDĐH) sẽ thay đổi sâu rộng từ môi trường giáo dục, vai trò của người dạy, người học đến phương pháp dạy học. Do đó, để đổi mới giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, cần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về phát triển giáo dục đại học; đổi mới chương trình và phương thức đào tạo; áp dụng công nghiệp 4.0 vào quá trình giảng dạy; đổi mới mô hình liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực nhà giáo và cán bộ quản lý.
Vì vậy, để tận dụng hiệu quả cơ hội cũng như vượt qua thách thức từ cách mạng công nghiệp 4.0, theo các chuyên gia, nhà quản lý giáo dục, các trường đại học ,các cơ sở giáo dục cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của CMCN 4.0; về sự thay đổi của thị trường lao động; về sứ mạng của trường đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao, đổi mới, hội nhập; nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về phát triển giáo dục đại học trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia. Chiến lược phát triển tổng thể giáo dục đại học cần xác định vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực bậc cao và đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm, tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với sự thay đổi liên tục của thị trường lao động toàn cầu và cuộc CMCN 4.0.
Đâu là giải pháp đảm bảo nguồn nhân lực trong giáo dục đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Tại Việt Nam, chất lượng của lực lượng lao động được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; thiếu các nghiên cứu khoa học đạt chất lượng quốc tế từ các cơ sở giáo dục đại học. Việc gắn kết giữa trường đại học với doanh nghiệp trong đào tạo đại học hiện nay chưa chặt chẽ; sinh viên ra trường chưa đáp ứng được ngay yêu cầu công việc trong sự nghiệp CNH -HĐH của đất nước cũng như thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XIV, Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ. Nội dung chất vấn của đại biểu nêu rõ “Trong thời gian qua, Việt Nam được coi là một trong những nước nói nhiều nhất đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, tôi có cảm giác là nhiều bộ, ngành, địa phương chưa có chương trình hành động và giải pháp cụ thể để thích ứng với cuộc cách mạng này. Xin Bộ trưởng cho biết ngành giáo dục đã làm gì và có chính sách gì mới để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0?”
Ngay sau khi đại biểu chất vấn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có phần giải trình trước Quốc hội, trong đó Bộ trưởng khẳng định: Giáo dục công nghệ 4.0 có thể xem là sự phát triển tất yếu của thời đại mới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi sâu sắc nền giáo dục của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhờ vào công nghệ 4.0, sinh viên từ tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tiếp cận nền giáo dục của các nước tiên tiến hơn. Nhiều trường cơ sở giáo dục đã triển khai các chương trình giáo dục trực tuyến, xóa bỏ ranh giới địa lý; đơn giản hóa các nguồn tài liệu giáo dục; giáo dục công nghệ 4.0 hình thành tính trách nhiệm; học tập thông qua máy tính, laptop giúp người học kiểm soát được quá trình học tập của mình, tạo sự kết nối giữa người dạy và người học…Tuy nhiên, cách mạng công nghệ 4.0 cũng đặt ra các thách thức không nhỏ toàn xã hội nói chung, giáo dục đại học nói riêng, đòi hỏi các trường phải thay đổi chương trình đào tạo, hình thành chuyên ngành mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giảng dạy trong các trường đại học, cũng như đặt ra yêu cầu tất yếu phải “học tập suốt đời” trong cách mạng công nghệ 4.0. Ngành giáo dục đã nhận thức và đưa vào chương trình giảng dạy, không chỉ ở bậc giáo dục phổ thông mà cả bậc đại học. Nâng cao nhận thức, nắm bắt xu thế để điều chỉnh các ngành mới phù hợp trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
|
|
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ |
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết: “Cuộc cách mạng công nghệ 4.0, đây là một xu hướng, vừa là cơ hội, vừa thách thức. Chúng tôi đã ý thức được điều này cho nên đối với giáo dục phổ thông chúng tôi đã đưa các chương trình này vào, trong đó có môn công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Hai lĩnh vực về công nghệ thông tin và trong đó sử dụng tiếng Anh mà đưa vào tốt ngay từ bậc phổ thông thì sẽ tạo một đột phá cho nguồn nhân lực trong tương lai. Đặc biệt, gắn với mô hình, phương thức đào tạo giáo dục theo hướng STEM, gắn giữa khoa học toán với công nghệ. Hiện nay, đây là một xu hướng học sinh cũng rất quan tâm và các doanh nghiệp cũng rất quan tâm. Đối với đại học chúng tôi đã có văn bản hướng dẫn các trường đại học. Trước hết phải nâng cao nhận thức, trong vấn đề đón bắt được xu hướng để từ đó xác định được ngành, nghề và nghiên cứu để điều chỉnh các ngành đã có và mở các ngành mới theo hướng này. Chúng tôi cũng đã có giải pháp.”
Qua phần trả lời của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, có thể thấy Bộ đã có những giải trình cụ thể liên quan tới tiến trình thúc đẩy chương trình hành động của ngành giáo dục đào tạo nắm bắt xu hướng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bộ trưởng cũng đã kịp thời đưa ra những giải pháp thiết thực, cụ thể trong giáo dục đào tạo trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giáo dục ở cả bậc giáo dục phổ thông và giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc cách mạng lần thứ tư.
Vậy giải pháp nào của Bộ Giáo dục và Đào tạo để giải quyết hiệu quả về vấn đề chính sách nhân lực trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0? Đại biểu kỳ vọng gì vào những giải pháp thực tế của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra trong thời gian tới? Phóng viên Cổng Thông tin điện tử Quốc hội đã có cuộc trao đổi với đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội về vấn đề này.
|
|
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội |
Phóng viên: Xuất phát từ thực tế nào, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XIV, đại biểu đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ về hành động cụ thể của ngành giáo dục và có chính sách gì mới để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0?
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội: Tôi có chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thúc đẩy chương trình hành động như thế nào trong giáo dục và đào tạo, thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để tham gia hội nhập. Xuất phát từ thực tế tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là một xu thế tất yếu và cần có những hành động, những chương trình cụ thể. Để thực hiện chương trình này thì không chỉ có nói mà chúng ta cần phải làm và phải có những chỉ đạo thiết thực. Phải có sự vào cuộc của các bộ ngành, có chương trình hành động cụ thể, căn cơ thì mới có thể triển khai có hiệu quả.
Chúng tôi thấy rằng lĩnh vực về giáo dục, đào tạo, về ý thức con người, về nhận thức, quyết tâm, nỗ lực và sự cố gắng của từng cá nhân, từng người phải bắt đầu từ giáo dục. Do đó, chúng tôi đã chất vấn câu hỏi tới Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phóng viên: Ngay sau câu hỏi chất vấn của Đại biểu, trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đăng đàn trả lời chất vấn của đại biểu. Đánh giá của đại biểu về nội dung trả lời chất vấn của Bộ trưởng?
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội: Trong phiên chất vấn đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cũng đã có câu trả lời, tôi cũng khá hài lòng với câu trả lời và chương trình hành động của Bộ trưởng. Bộ trưởng cũng nêu ra các giải pháp từ nhận thức như thế nào, kế hoạch hành động, triển khai, lộ trình triển khai, tôi thấy khá phù hợp, làm sao để chúng ta có thể đưa được vào các chương trình, đổi mới các chương trình, mở một số ngành mới để thúc đẩy nguồn nhân lực công nghệ thông tin của các khối giảng dạy, nâng cao kiến thức cho học sinh, sinh viên cũng như thầy cô giáo, giảng viên. Cần phải nâng cao về kiến thức ngoại ngữ, tin học, vi tính cũng như cơ sở vật chất để có thể triển khai được hoạt động này.
Phóng viên: Trong nội dung trả lời chất vấn, Đại biểu đánh giá gì về giải pháp mà ngành giáo dục đã và đang thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề như đại biểu nêu?
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội: Khi Bộ trưởng đưa ra: Chúng ta cần có những đổi mới về chương trình, đổi mới về nguồn nhân lực, về giảng viên, về nâng cao chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo, có kiểm định để đánh giá chất lượng, xem chương trình có đạt yêu cầu hay không; cập nhập các kinh nghiệm của Quốc tế để thúc đẩy ứng dụng vào trong mỗi lĩnh vực. Tôi thấy Bộ trưởng Bộ Giáo dục đưa ra các giải pháp như vậy. Cùng với đó là việc triển khai các hội thảo, tổ chức những buổi tham khảo ý kiến, để xây dựng các chương trình. Sau đó, chúng tôi cũng theo dõi suốt quá trình mà Bộ Giáo dục Đào tạo triển khai. Chúng tôi cũng thấy rằng, ngay sau đó Bộ trưởng cũng đã có những chương trình, những kế hoạch đưa ra và chỉ thị cho các trường đại học là cần đẩy mạnh các kiến thức trong chuẩn đào tạo về chương trình đào tạo làm sao để đạt được chuẩn về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ để các em có thể nắm bắt được các kiến thức này. Làm sao để các em ứng dụng kiến thức này trong việc học tập, trong việc nghiên cứu khoa học, trong ứng dụng vào thực tiễn của ngành nghề.
Tôi thấy là đã có những hành động cụ thể, có các văn bản chỉ đạo cụ thể, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với các Bộ trưởng của các bộ ngành cũng đã tổ chức những buổi toạ đàm, những buổi hội thảo để chia sẻ cũng như nêu tầm quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và đưa ra những giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực và từng ngành.
Phóng viên: Được biết, thời gian qua, ngành giáo dục đã kịp thời triển khai áp dụng công nghiệp 4.0 vào đối với lĩnh vực giáo dục , trong đó có công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Đánh giá của đại biểu về việc triển khai nội dung này?
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội: Tôi đánh giá Bộ Giáo dục đang triển khai tốt. Tôi nghĩ rằng là cần có thời gian và tiếp tục để chúng ta triển khai liên tục và đến đâu lại rút kinh nghiệp, cập nhật, nâng cao. Sau khi nhận được Chỉ thị và thông tin của Bộ, nhất là hiện nay trong mùa dịch Covid, Bộ liên tục có văn bản khuyến khích các trường tăng cường đào tạo trực tuyến. Đấy là những vấn đề mà tôi thấy rằng đang cập nhật và ứng dụng rất tốt công nghệ thông tin. Sắp tới cũng có những giải pháp tiếp tục nữa để làm sao tiếc kiệm hơn, hiệu quả hơn, trong việc đầu tư cho các trường đại học nghiên cứu giảng dạy. Nếu ta ứng dụng trực tuyến thì giảm được cả địa điểm và phòng học trên giảng đường, từ đó cơ sở vật chất cũng đỡ đi hơn. Trường phổ thông đã triển khai, thành phố và các tỉnh cũng đã tích cực cho đào tạo trực tuyến, ví dụ như các em học sinh ở nhà nhưng vẫn tham gia, giao lưu được với bạn bè, vẫn cập nhật, gặp gỡ thầy cô qua hệ thống trực tuyến.
Tôi nghĩ đấy là một giải pháp rất tuyệt vời trong mùa dịch. Nhưng cũng cần xem việc công nhận thi cử, đánh giá chất lượng như thế nào cho đảm bảo vì ngay với khối giáo dục đại học cũng thế. Việc thi cử qua hệ thống Online, cần có hệ thống đảm bảo chất lượng, bổ sung thêm vào và đối với Học viện chúng tôi thì chúng tôi cũng chỉ đạo Hội đồng đảm bảo chất lượng phải rà soát lại tất cả những điều kiện để đảm bảo đào tạo hệ thống online đảm bảo chất lượng.
Phóng viên Kim Yến: Việt Nam được coi là một trong những nước nói nhiều tới cuộc cách mạng công nghệ 4.0, để thực hiện được mục tiêu thích ứng với cuộc cách mạng này cùng với các Bộ ngành, địa phương, theo Đại biểu ngành giáo dục thời gian tới cần có những chương trình hành động cụ thể nào ?
Đại biểu Nguyễn Thị Lan, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội: Tôi nghĩ rằng những chương trình, giải pháp mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra cần phải sâu sát, tiếp tục chỉ đạo và thường xuyên có những đổi mới, kể cả phần mềm bởi công nghệ thông tin càng ngày có những ứng dụng nhiều hơn. Chúng ta cũng sâu sát hơn để nắm được tình hình và có những hướng dẫn, chỉ đạo đưa vào trong các chương trình đào tạo, tổ chức khi có phần mềm mới, những thông tin mới cần phải được chia sẻ thêm. Đặc biệt là những ứng dụng sâu hơn quản lý trong các lĩnh vực, ví dụ như quản lý chất lượng về an toàn thực phẩm, quản lý chất lượng nông sản, sử dụng các công nghệ quản lý sản phẩm theo hệ thống chuỗi tốt hơn trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với giảo dục cần phải có những chương trình thúc đẩy trong các trường đại học. Làm sao để truyền tải những công nghệ mới này cho sinh viên nắm được, khi mà ra trường, các em sẽ ứng dụng vào thực tiễn tốt hơn. Các bộ ngành cũng cần có những chỉ đạo tốt, làm sao ứng dụng vào trong khoa học công nghệ, trong đào tạo, quản lý sản phẩm để phục vụ thực tiễn nhiều hơn, tiếc kiệm chi phí, tiếc kiệm thời gian và giám sát được tốt. Muốn làm được như vậy cần phải có đánh gía cụ thể.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn đại biểu.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh khoa học, công nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án Hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025; Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030; Chiến lược Phát triển tổng thể giáo dục đại học giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn 2035, làm cơ sở cho đổi mới, phát triển toàn diện và bền vững trong dài hạn của hệ thống giáo dục đại học. Với những giải pháp mà ngành giáo dục đưa ra đã và đang ngày càng đáp ứng kỳ vọng của đại biểu, cử tri cả nước./.