Trải qua gần 40 năm đổi mới, sự phát triển của Việt Nam trên mọi lĩnh vực nói chung và nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân nói riêng đã có bước phát triển nhảy vọt về cả ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn, thách thức đan xen. Để phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ.

leftcenterrightdel
 Phân loại bưởi xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thực trạng phát triển bền vững về xã hội của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân

Bảo đảm an ninh lương thực, góp phần quan trọng ổn định xã hội chính là thành tựu lớn nhất của ngành nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân nước ta thời gian qua. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành quốc gia bền vững về an ninh lương thực; tiếp tục góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với việc hằng năm xuất khẩu nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm (trong đó, mỗi năm xuất khẩu trên 6 triệu tấn gạo, cung cấp khoảng 12 - 15% lượng gạo xuất khẩu trên thế giới)(1). Sản lượng lương thực bình quân đầu người có xu hướng tăng qua các năm cho thấy sự sẵn có và sự đa dạng thực phẩm của Việt Nam ngày càng tốt và phong phú hơn.

Về khía cạnh xã hội hiện đại, FAO không chỉ quan tâm đến nhu cầu lương thực cơ bản, mà còn quan tâm đến khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh. Về chỉ tiêu thống kê này, Việt Nam đang ở vị trí cao hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới (Xem hình 1). Tỷ lệ dân số không đủ khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh thấp, khoảng 21%.

Hình 1. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp trong tổng lực lượng lao động của Việt Nam

leftcenterrightdel
 

Nguồn: FAO: FAOSTAT: Cost and Affordability of a Healthy Diet (Tạm dịch: Chi phí và khả năng chi trả của chế độ ăn uống lành mạnh), https://www.fao.org/faostat/en/#data/CAHD

Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch đáng kể từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong những năm vừa qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch lớn từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, lao động nông nghiệp có xu hướng giảm cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lực lượng lao động xã hội (Xem hình 2). Điều này cho thấy phân bố lao động đã bền vững hơn, góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động nông thôn. Nhờ áp dụng thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản xuất, sản xuất nông nghiệp không còn là ngành quá thâm dụng lao động.

Hình 2: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2010 - 2023

leftcenterrightdel
 

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-nam-2020

Kinh tế nông thôn được phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng vẫn giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh lĩnh vực ngành, nghề nông thôn tăng bình quân 9 - 10%/năm, đến năm 2020 có trên 817.000 cơ sở. Nhiều nghề, làng nghề từng bị mai một đang dần được phục hồi và phát triển, tạo việc làm cho trên 2,3 triệu người lao động. Doanh thu từ hoạt động ngành, nghề nông thôn đạt trên 236.000 tỷ đồng. Đến năm 2020, cả nước có 165 nghề truyền thống; 1.951 làng nghề (tăng 300 làng nghề so với năm 2011), trong đó 1.062 làng nghề và 889 làng truyền thống đã được công nhận. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ra đời từ năm 2018, được tổ chức triển khai rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố, bước đầu đã đạt được kết quả nhất định; phát huy được nhiều sản phẩm lợi thế của địa phương, vai trò cộng đồng được nâng cao; đồng thời, thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với vai trò tích cực của HTX và doanh nghiệp. Tỷ lệ chủ thể OCOP là nữ chiếm 39%, cao hơn tỷ lệ nữ giữ vai trò điều hành doanh nghiệp của Việt Nam (25%)(2).

Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập của người dân đô thị. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 3,36 lần, từ mức 12,8 triệu đồng năm 2010 lên khoảng 43 triệu đồng năm 2020 và tăng gần 1,9 lần so với năm 2015, vượt mục tiêu đề ra cho đến năm 2020. Chênh lệch thu nhập bình quân của người lao động ở thành thị so với nông thôn ngày càng giảm, đến năm 2020 là 1,59 lần (Xem hình 3); hệ số Gini ở mức trung bình.

Hình 3. Chênh lệch thu nhập bình quân/tháng giữa người lao động ở nông thôn và thành thị 

leftcenterrightdel
 

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-nam-2020

Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5%/năm và đến hết năm 2020 còn 7,1%. Tỷ lệ hộ có mức độ thiếu hụt về các dịch vụ xã hội cơ bản cũng giảm (Xem hình 4).

Hình 4. Mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản chung cả nước năm 2020

leftcenterrightdel
 

Xem: Tổng cục Thống kê: Kết quả sơ bộ khảo sát mức sống dân cư 2020, Hà Nội, 2021

Bên cạnh những kết quả phát triển về mặt xã hội nêu trên, còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về xã hội của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân nước ta, như 1- Cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp phân bố không đồng đều ở các tiểu ngành và ở các vùng kinh tế; 2- Năng suất lao động ngành nông nghiệp có xu hướng tăng nhanh qua các năm, nhưng vẫn thấp hơn năng suất lao động trung bình của cả nước và thấp hơn so với các ngành, nghề khác; 3- Thu nhập của người lao động từ các hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng suy giảm cả về số tương đối và tuyệt đối; 4- Khả năng kết nối thông tin khu vực nông thôn thấp hơn so với khu vực đô thị...

Thực trạng phát triển bền vững về môi trường của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân

Phát triển nông nghiệp bền vững về môi trường đã được triển khai lồng ghép trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên tất cả lĩnh vực từ nông, lâm nghiệp đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.

Các quy trình sản xuất xanh, thân thiện với môi trường được áp dụng. Đầu năm 2022, cả nước có khoảng 240.000 ha canh tác hữu cơ, với sự tham gia của gần 20.000 người lao động tại 46 tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, có khoảng 160 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông nghiệp hữu cơ với kim ngạch xuất khẩu hằng năm đạt khoảng 335 triệu USD (tăng gần 15 lần so với năm 2010), đứng thứ 8 trong 10 nước có diện tích nông nghiệp hữu cơ lớn nhất châu Á. Sau 10 năm, diện tích canh tác nông nghiệp hữu cơ của nước ta tăng trên 223.000ha. Sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến nhiều thị trường quốc tế lớn(3).

Công tác thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2021 đã có 48 tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo về hướng dẫn thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng; 42 tỉnh, thành phố có 57.910 bể thu gom (nổi bật nhất là tỉnh Bình Định có 100% xã có nhà lưu chứa bao bì thuốc bảo vệ thực vật). Tỷ lệ xã có điểm thu gom thuốc bảo vệ thực vật cả nước đạt 21%.

Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu với các hoạt động phòng, chống thiên tai được tổ chức toàn diện hơn. Từng bước chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa; đồng thời, năng lực phòng, chống thiên tai ngày càng được nâng cao. Các mô hình nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu (CSA) được triển khai và đem lại hiệu quả rất đáng khích lệ.

Công tác trồng và bảo vệ rừng ngày được quan tâm và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tỷ lệ rừng được giao khoán bảo vệ, trồng mới tăng qua các năm. Đến năm 2020, diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ toàn quốc là 13.923.108ha, đạt tỷ lệ che phủ 42,02%. Chính sách hỗ trợ phát triển lâm nghiệp đã tương đối đầy đủ và rõ ràng, cho phép người dân, doanh nghiệp khai thác kinh tế nhằm mục tiêu bảo vệ rừng hiệu quả và phát triển rừng bền vững. Một số địa phương đã ban hành quy định tạm thời cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam đã và đang phát triển nhanh và ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ trong nước, mà còn có giá trị xuất khẩu bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, có một số vấn đề chưa bền vững về môi trường:

Một là, sản xuất nông nghiệp dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên nên kém hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp chưa bền vững, tăng trưởng còn dựa trên việc thâm dụng đầu vào và khai thác quá mức tài nguyên nên rủi ro cao. Hiệu quả, giá trị sản xuất từ đất đang giảm dần do khai thác quá mức(4). Tỷ lệ diện tích đất bị thoái hóa năm 2019 là 35,6%, cao hơn mức 31,7% năm 2017(5). 80% sản lượng cá trên vùng biển ngoài khơi của nước ta đã bị khai thác, 25% đã bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt.

Hai là, ngành nông nghiệp là ngành phát thải khí nhà kính lớn thứ hai ở Việt Nam, chiếm khoảng 19% tổng lượng phát thải vào năm 2020. Sản xuất lúa gạo chiếm khoảng 48% lượng phát thải, tiếp theo là lên men đường ruột trong chăn nuôi (15,3%), bón phân bón tổng hợp (12,9%),... Một đặc điểm về phát thải khí nhà kính của ngành nông nghiệp là khí mê-tan và ô-xít ni-tơ chiếm hơn 70% khí phát thải, khác với khí thải  các-bon đi-ô-xít (CO2) trong một số ngành khác. Khí mê-tan và ô-xít ni-tơ có thời gian tồn tại trong khí quyển ngắn hơn nhiều so với CO2, nhưng có tác động tiêu cực đến môi trường mạnh hơn gấp nhiều lần(6).

Ba là, ô nhiễm môi trường vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam, được thể hiện ở các mặt sau: 1- Ô nhiễm nước ở Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, kể cả ở các vùng nông thôn, nhưng đặc biệt nghiêm trọng là ở cụm công nghiệp và làng nghề có liên quan đến hoạt động xả thải; 2- Ô nhiễm môi trường đất do việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, diệt côn trùng; 3- Ô nhiễm không khí do các nguồn tại chỗ và do các nguồn xuyên biên giới; 4- Suy giảm các hệ sinh thái, như hệ sinh thái rừng, bao gồm cả rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn, suy giảm hệ sinh thái biển. Nổi cộm nhất là sự suy giảm về chất lượng rừng đầu nguồn vì liên quan đến khả năng bảo tồn và duy trì tài nguyên nước ngầm và vai trò phòng hộ trong phòng, tránh thiên tai(7).

Một số khuyến nghị chính sách

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam từ một nước kém phát triển trở thành một nước đang trên đà phát triển, tiệm cận gần với nhiều mục tiêu trong 17 mục tiêu phát triển bền vững mà Liên hợp quốc đã đề ra. Trước bối cảnh, xu hướng vận động mới trên phạm vi toàn cầu, như toàn cầu hóa, chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu, nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn, thách thức đan xen. Khó khăn, thách thức đó tạo ra rào cản cho việc đạt được nhiều mục tiêu phát triển bền vững mà chúng ta đã đề ra, nhất là các mục tiêu về xã hội và môi trường.

Phát triển bền vững đã trở thành xu thế chung trên toàn cầu. Chương trình nghị sự 2030 về các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, phát triển hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư của tất cả quốc gia, trong đó có Việt Nam(8). Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đón nhận cả cơ hội cùng với khó khăn, thách thức mới đan xen và khó dự báo. Nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nhưng chưa bền vững, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng còn thấp; năng lực cạnh tranh yếu; hiệu quả sử dụng đất đai còn thấp; chuyển dịch cơ cấu sản xuất chậm; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; khoa học và công nghệ chưa thành động lực cho sự phát triển(9).

Theo FAO, nguồn gốc của tăng trưởng GDP là từ ngành nông nghiệp và tăng trưởng của ngành nông nghiệp đóng góp cao gấp 2 lần đóng góp của các ngành khác vào công cuộc giảm nghèo cho người dân, thậm chí gấp 5 lần ở các nước thu nhập thấp, ít nguồn lực(10).Hiện nay, tỷ lệ lớn dân số và lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn và trong ngành nông nghiệp. Do vậy, nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới tính bền vững của quá trình phát triển chung của nền kinh tế và sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân dù là trọng tâm của nền kinh tế, nhưng là bộ phận dễ bị tổn thương và có nguy cơ phát triển thiếu bền vững nhất.

Trong bối cảnh mới, chúng ta cần thay đổi quan điểm về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam với việc tiếp tục coi trọng ba lĩnh vực này trong quá trình phát triển đất nước, với nông nghiệp là nền tảng chiến lược. Phát triển bền vững nông nghiệp phải chuyển sang sản xuất thân thiện với môi trường, tận dụng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đô thị hóa và chuyển đổi số và thích ứng với biến đổi khí hậu. Kinh tế nông thôn là trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới và cần được phát triển theo hướng xanh, tăng cường tỷ trọng kinh tế số. Nông dân là trung tâm của quá trình phát triển, cần được trang bị kiến thức và kỹ năng để thích ứng với bối cảnh mới. Để phát triển bền vững cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp với khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước cần được phát huy mạnh mẽ, cùng với sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, thúc đẩy phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân.

Cần thực hiện chủ trương xây dựng nền nông nghiệp tích hợp đa giá trị, dựa trên quy hoạch tổng thể, ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp xanh nhằm phát triển kinh tế, xã hội và môi trường bền vững. Tận dụng cơ hội từ chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nâng cao chất lượng nông sản, giảm phát thải và tăng cạnh tranh quốc tế. Phát triển kinh tế nông thôn bền vững, gắn kết với kinh tế đô thị, bảo tồn bản sắc nông thôn và xây dựng kết cấu hạ tầng hỗ trợ chuỗi giá trị. Nông dân là trung tâm, cần được trao quyền, hỗ trợ phát triển chuyên nghiệp, đặc biệt là nông dân trẻ, khuyến khích khởi nghiệp và ứng dụng công nghệ.

Để phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ. Trước hết, cần thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp, xây dựng cơ sở dữ liệu số quốc gia và khuyến khích đầu tư công nghệ số, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp trong việc áp dụng công nghệ hiện đại, thương mại điện tử và tự động hóa sản xuất. Đồng thời, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân, với nông thôn là nền tảng, nông dân là trung tâm và nông nghiệp là động lực phát triển. Nhiều giải pháp về ứng phó với biến đổi khí hậu, như nâng cao nhận thức, ứng dụng khoa học - công nghệ, hợp tác quốc tế và xây dựng hệ thống cảnh báo khí hậu có thể được áp dụng; đồng thời, cũng cân nhắc các vấn đề khác, như tập huấn, đầu tư nguồn vốn, điều chỉnh diện tích canh tác và hướng dẫn sử dụng công nghệ thông tin để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân, cần triển khai các giải pháp toàn diện, chú trọng cả theo vùng và các ngành. Các giải pháp trên nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, tạo lợi ích cho các bên liên quan và hướng tới phát triển xã hội nông thôn văn minh, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, bảo đảm an toàn thực phẩm, an sinh xã hội và sức khỏe cộng đồng.

Mặc dù tính bền vững của nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân đã được đánh giá theo nhiều góc độ, ở các cấp độ khác nhau; tuy nhiên, các nghiên cứu đều đi đến quan điểm chung - phải đánh giá theo cách tiếp cận hệ thống(11). Bởi lẽ, nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân là ba thành tố không thể tách rời. Ngành nông nghiệp năng động, phát triển lành mạnh là nền tảng quan trọng của phát triển nông thôn, tạo ra mối liên kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác, và đó là cơ sở mang tính quyết định đến sự hưng thịnh của cư dân nông thôn nói chung và của người nông dân nói riêng.

Hội nhập kinh tế chặt chẽ của khu vực nông thôn với khu vực thành thị, giữa nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ sẽ tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, điều đó có thể thu hẹp chênh lệch thu nhập và mức sống giữa nông thôn - thành thị, mở rộng cơ hội và khuyến khích việc giữ chân người có kỹ năng, bao gồm cả thanh niên, ở lại khu vực nông thôn. Tiềm năng giải quyết việc làm ở nông thôn không chỉ nằm ở lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông sản và công nghiệp nông thôn, mà còn trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, chất thải và phụ phẩm. Bên cạnh đó, sinh kế của cư dân nông thôn nói chung và nông dân nói riêng cũng sẽ được nâng cao thông qua sự tham gia hiệu quả của cộng đồng vào việc quản lý các mục tiêu xã hội, kinh tế và môi trường. /.

-----------------------------------------

* Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp quốc gia KX.04.20/21-25 “Phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với biến đổi khí hậu”

** TS Cao Đức Phát, TS Nguyễn Thị Thu Quỳnh, ThS Bùi Thị Khánh Hòa - Học viện Nông nghiệp Việt Nam

(1) Xem: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Dự thảo (lần 5) Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050; OECD & FAO: OECD - FAO Agricultural Outlook 2023 - 2032 (Tạm dịch: Triển vọng phát triển nông nghiệp 2023 - 2032), https://doi.org/10.1787/08801ab7-en
(2) Xem: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Dự thảo (lần 5) Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050
(3) Viện Bảo vệ thực vật: Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam, ngày 27-6-2023, https://ppri.org.vn/xu-huong-phat-trien-nong-nghiep-huu-co-tren-the-gioi-va-trien-vong-cua-viet-nam-c183a591.html
(4) Xem: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Dự thảo (lần 5) Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050
(5) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững 2021, Hà Nội, 2022
(6) World Bank: “Những điểm chính: Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam”, ngày 1-7-2022, https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/brief/key-highlights-country-climate-and-development-report-for-vietnam
(7) Trần Hồng Thái và cộng sự: “Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo đảm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững ở Việt Nam (phần 2)”, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 13-4-2022, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/thuc-trang-va-giai-phap-bao-ve-moi-truong-thich-ung-voi-bien-doi-khi-hau-phong-chong-thien-tai-bao-dam-phat-trien-nong-nghiep-nong-thon-ben-vung-o-viet-nam-phan-2.html
(8) UN - Department of Economic and Social Affairs: The 17 Goals (17 mục tiêu), https://sdgs.un.org/goals
(9) Xem: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Dự thảo (lần 5) Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến 2050
(10) Campbell et all. “Urgent action to combat climate change and its impacts (SDG 13): Transforming agriculture and food systems” (Tạm dịch: Hành động khẩn cấp để chống biến đổi khí hậu và tác động của nó (SDG 13): Chuyển đổi hệ thống nông nghiệp và thực phẩm), Sustainability Science, 34, 13 - 20, https://doi.org/10.1016/j.cosust.2018.06.005
(11) Xem: T. Sakuyama: “Multifunctionality of Agriculture in Comparative Perspective-Priorities and Policy Instruments in Developed World” (Tạm dịch: Tính đa chức năng của nông nghiệp trong góc nhìn so sánh - Các ưu tiên và công cụ chính sách ở các nước phát triển), Journal of Rural Planning Association, 22(1), 2003, 37 - 45, https://doi.org/10.2750/arp.22.37 và P.B. Cobbinah, M. O. Erdiaw-Kwasie, P. Amoateng: Rethinking sustainable development within the framework of poverty and urbanisation in developing countries (Tạm dịch: Xem xét lại phát triển bền vững trong khuôn khổ đói nghèo và đô thị hóa ở các nước đang phát triển), Environmental Development, 13, 2015, 18 - 32. https://doi.org/10.1016/j.envdev.2014.11.001

GS, TS, NGND TRẦN ĐỨC VIÊN VÀ CỘNG SỰ**
Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

https://tapchicongsan.org.vn/