Tại Hội nghị "Thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với công tác đào tạo của các viện, trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường" do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã có những ý kiến rất gợi mở về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nhà trường.
Theo GS.TS Nguyễn Thị Lan, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo có thể hiểu là một “hệ sinh thái tri thức”, nơi mọi ý tưởng đều có môi trường để nảy mầm, mọi nghiên cứu đều có cơ hội đi vào thực tiễn, và mọi cá nhân đều được khuyến khích đóng góp vào sự phát triển chung.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong trường đại học được cấu thành từ sáu yếu tố cốt lõi: con người sáng tạo, hạ tầng nghiên cứu – công nghệ, hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và thương mại hóa, chuyển đổi số, cùng cơ chế và văn hóa sáng tạo. Khi những yếu tố này liên kết chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, chúng tạo ra một môi trường nơi tri thức được tạo ra, thử nghiệm và lan tỏa liên tục, giúp nhà trường luôn đổi mới và phát triển.
"Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh sẽ rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp spin-off, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, đồng thời thu hút nguồn lực xã hội và nâng cao uy tín của nhà trường. Nhờ vậy, đại học thực sự trở thành trung tâm tri thức và đổi mới, nơi tạo ra công nghệ mới và đóng góp thiết thực vào sự phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên kinh tế tri thức và chuyển đổi số", Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh.
    |
 |
| Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam tham quan các sản phẩm khoa học công nghệ của Học viện. Ảnh: Khương Trung. |
GS.TS Nguyễn Thị Lan khẳng định, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao coi đây là động lực then chốt của phát triển quốc gia. Nhiều Chủ trương quan trọng bao gồm Nghị quyết 57, Nghị quyết 52 và Nghị quyết 71 của Trung ương đã khẳng định rõ yêu cầu xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ trong các viện, trường và đặt niềm tin vào sức sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Dẫn chứng bài học kinh nghiệm trên thế giới, GS.TS Nguyễn Thị Lan cho rằng, nhiều mô hình điển hình cho thấy sức mạnh của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đại học. Đại học Stanford là điểm khởi nguồn của Thung lũng Silicon – cái nôi của hàng nghìn công ty công nghệ toàn cầu, được hình thành từ sự kết hợp giữa nghiên cứu, doanh nghiệp và vốn đầu tư mạo hiểm.
Đại học Cambridge phát triển cụm đổi mới sáng tạo Cambridge Cluster, nơi hàng trăm công ty spin-off trong sinh học, nông nghiệp và công nghệ cao ra đời từ các dự án nghiên cứu.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Đại học Wageningen của Hà Lan đã hình thành “Food Valley” – mô hình liên kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu và doanh nghiệp, trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp hàng đầu châu Âu.
    |
 |
| Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam tham quan phòng thí nghiệm hiện đại của Học viện. Ảnh: Khương Trung. |
"Những kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để phát triển trong kỷ nguyên kinh tế tri thức, các trường đại học bắt buộc phải xây dựng được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh", GS.TS Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Nói về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, GS.TS Nguyễn Thị Lan cho rằng, có 6 yếu tố tạo nên thành công.
Một là, Học viện coi con người là trung tâm. Nhiều chính sách đã được triển khai nhằm thu hút, khích lệ đội ngũ nhà khoa học và giảng viên đam mê nghiên cứu. Với gần 1.400 cán bộ, trong đó hơn 300 giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ được đào tạo tại các quốc gia có nền khoa học tiên tiến, đây chính là nguồn năng lượng nội sinh quan trọng nhất để thúc đẩy đột phá khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Hai là, Học viện chú trọng đầu tư hạ tầng nghiên cứu – công nghệ. Các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và hệ thống trang thiết bị được nâng cấp đồng bộ để phục vụ các nhóm nghiên cứu mạnh. Hiện Học viện có 6 phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO, hàng ngàn chỉ tiêu phân tích phục vụ nông nghiệp – môi trường, cùng hơn 80 mô hình thực hành nghiên cứu và mô hình trải nghiệm. Học viện cũng đang phát triển Trung tâm nghiên cứu sáng tạo, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp thông minh và phòng thí nghiệm in 3D; đồng thời quy hoạch các không gian phụ trợ như cà phê khởi nghiệp, khu thực hành khách sạn, sân golf mô phỏng… nhằm hoàn thiện cấu trúc không gian của một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiện đại.
Ba là, Học viên tập trung đầu tư hoạt động nghiên cứu: Học viện luôn coi thúc đẩy nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ trọng tâm, với nhiều cơ chế đột phá về lương, chính sách và đặt hàng nhiệm vụ để các nhóm nghiên cứu mạnh phát huy tối đa năng lực. Mọi đề tài đều được định hướng gắn với nhu cầu thị trường, tạo ra sản phẩm không chỉ phục vụ đào tạo mà còn mang lại giá trị cho sản xuất và đời sống. Nhờ đó, nhiều quy trình, công nghệ và sản phẩm của Học viện đã được chuyển giao và thương mại hóa, đem lại hiệu quả rõ rệt cho doanh nghiệp và người nông dân. Học viện chủ động mở rộng hợp tác quốc tế, qua đó nâng cao năng lực nghiên cứu, tăng cường kết nối đối tác và thổi thêm “luồng sinh khí mới” vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Bốn là, Học viện đẩy mạnh thương mại hóa và chuyển giao công nghệ. Thông qua VNUA Tech-Mart, sàn giao dịch công nghệ AgroMart, các mô hình doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và mạng lưới trên 200 doanh nghiệp – hợp tác xã, hoạt động chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ ngày càng sôi động. Đây được xem là mắt xích quan trọng để hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 trong giai đoạn mới.
Năm là, chuyển đổi số trở thành động lực mới. Học viện đầu tư phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh về dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và nông nghiệp số; đồng thời ứng dụng công nghệ số trong quản trị, đào tạo, nghiên cứu, hợp tác quốc tế, dịch vụ sinh viên và các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp. Chuyển đổi số đã len sâu vào mọi lĩnh vực, góp phần tăng tốc và nâng chất các hoạt động của Học viện.
Sáu là, Học viện chú trọng xây dựng văn hóa sáng tạo và văn hóa chất lượng. Tinh thần đổi mới, ý thức trách nhiệm và khát vọng cống hiến được lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, giảng viên và sinh viên.
Để góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nói chung và thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo tinh thần Nghị quyết 57 và các nghị quyết quan trọng khác của Đảng, GS.TS Nguyễn Thị Lan kiến nghị tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ và thương mại hóa các sản phẩm khoa học công nghệ (định giá công nghệ, thành lập và vận hành spin off, thúc đẩy đăng ký sở hữu trí tuệ quốc tế nhằm thương mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học ra thị trường quốc tế…) để các trường đại học có không gian phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu đủ mạnh cho các trường đại học có đủ sức bứt phá theo tinh thần Nghị quyết 57 và Nghị quyết 71 cùng các nghị quyết quan trọng khác.
Tăng đầu tư hạ tầng nghiên cứu – công nghệ để thúc đẩy liên kết giữa nhà trường – doanh nghiệp – địa phương trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.
Đầu tư Trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam để kết nối với hoạt động đổi mới sáng tại giữa các trường đào tạo và toàn ngành nông nghiệp và môi trường.
|
Học viện Nông nghiệp Việt Nam là đại học đa ngành, trọng điểm quốc gia. Đến nay, Học viện đã đào tạo cho đất nước trên 120.000 kỹ sư, cử nhân, hơn 12.000 thạc sỹ và hơn 600 tiến sỹ. Nhiều sinh viên, học viên tốt nghiệp Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã và đang đảm nhận những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và doanh nghiệp. Với những thành tích trong đào tạo và nghiên cứu khoa học cũng như hợp tác quốc tế, Học viện đã đóng góp tích cực vào sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong những thập kỷ qua. Năm 2025, Học viện tuyển sinh 18 nhóm ngành với 44 ngành đào tạo.
Thông tin chi tiết: https://daotao.vnua.edu.vn/xettuyen và https://tuyensinh.vnua.edu.vn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam được coi là “nôi” đào tạo bác sĩ thú y đầu tiên tại Việt Nam. Tính đến nay, Học viện đã đào tạo cho đất nước trên 10.000 Bác sĩ Thú y, Thạc sĩ và Tiến sĩ ngành Thú y phục vụ cho công tác thú y trong cả nước. Chương trình đào tạo Bác sĩ Thú y tại Học viện đã được xây dựng và rà soát hàng năm nhằm đạt được năng lực cốt lõi theo tổ chức Thú y thế giới (OIE), các trường đào tạo Thú y Châu Á, Đông Nam Á và yêu cầu thực tiễn ngành Thú y Việt Nam. Chương trình bao gồm đầy đủ khối kiến thức, kỹ năng đại cương, cơ sở, chuyên môn ngành Thú y; kiến thức kỹ năng mềm, Tin học, Ngoại ngữ, Quản lý kinh tế và Môi trường. Đặc biệt, chương trình đào tạo ngành Thú y còn tăng thời lượng cho kỹ năng tay nghề lâm sàng, phi lâm sàng và thực địa sản xuất. https://tuyensinh.vnua.edu.vn/nganh-thu-y/
|
https://danviet.vn/