8 giải pháp đột phá của Bộ Nông nghiệp và Môi trường để phát triển khoa học công nghệ

Hôm nay, 14/11, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo của các viện, trường của Bộ. Bộ trưởng Trần Đức Thắng chủ trì hội nghị.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường về thực trạng và giải pháp thúc đẩy đột phá phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo ngành Nông nghiệp và Môi trường do ông Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường trình bày tại Hội nghị cho thấy, giai đoạn 2021-2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã công nhận 225 giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp (tăng 6,6%); 150 tiến bộ kỹ thuật (tăng 1,8%); cấp 158 bằng độc quyền sáng chế/sở hữu trí tuệ/giải pháp hữu ích/quy trình công nghệ/hướng dẫn kỹ thuật (tăng 34%); cung cấp 72 cơ sở khoa học phục vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chỉ đạo điều hành, quản lý nhà nước.- Sản xuất được 31 thiết bị/vật liệu mới; công bố 3.665 bài báo khoa học quốc tế (tăng 49%), 6.540 bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành trong nước.

Toàn ngành đã triển khai trên 1.000 mô hình sản xuất nông nghiệp có ứng dụng KHCN; xây dựng và công bố 193 QCVN, ban hành 1.864 TCVN; hiện đang tiếp tục xây dựng 3 QCVN và 82 TCVN cần hoàn thành trong năm 2025.

"Kết quả KHCN đã được chuyển giao, ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp thông qua doanh nghiệp và người nông dân, góp phần quan trọng để giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp; nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản đã giúp tăng hiệu quả kinh tế từ 10-30%; góp phần thay đổi tập quán, thói quen canh tác, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của ngành", ông Long nói.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, ngành Nông nghiệp và Môi trường luôn được Đảng, Chính phủ đánh giá là trụ đỡ của nền kinh tế, từ một quốc gia sản xuất không đủ ăn, đến nay Việt Nam đã trở thành cường quốc xuất khẩu nông sản lớn thế giới, đạt trên 62,5 tỷ USD vào năm 2024 và năm 2025 có thể đạt khoảng 70 tỷ USD, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, an sinh xã hội và môi trường bền vững.

Có được kết quả như vậy là nhờ chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển giao, ứng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, gần đây nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính phủ, Luật và Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

leftcenterrightdel
Bộ trưởng Trần Đức Thắng (ngồi giữa), Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, GS.TS Nguyễn Thị Lan - Giám đốc Học viện Nông nghiệp chủ trì Hội nghị “Thúc đẩy đột phá nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo của các viện, trường”. Ảnh: Dương Triều. 

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đưa ra 8 nhóm giải pháp để thúc đầy phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, đó là: Thứ nhất, đề xuất sửa đổi ngay những quy định của pháp luật chuyên ngành để tháo gỡ các điểm nghẽn, cắt giảm triệt để các điều kiện, thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngành nông nghiệp và môi trường.

Thứ hai, trên cơ sở quy định của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Chuyển giao công nghệ, Chiến lược quốc gia về khoa học, công nghệ, cần khẩn trương rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chương trình, kế hoạch quốc gia của ngành, bảo đảm có đầy đủ các nội dung để thúc đẩy đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Thứ ba, sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức các tổ chức khoa học công nghệ thuộc Bộ bảo đảm "tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, hướng đến tự chủ toàn diện, bao gồm tự chủ bộ máy, tự chủ nhiệm vụ và tự chủ tài chính.

Thứ tư, thay đổi toàn diện tư duy đề xuất và cách đặt hàng; trong đó, đề xuất nghiên cứu phải xuất phát từ yêu cầu sản xuất thực tiễn, cung cấp các giải pháp KHCN, các sản phẩm phục vụ sản xuất, thương mại hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, an toàn và giá trị của sản phẩm.

Thứ năm, chuyển đổi số toàn diện, số hóa ngay từ khi xây dựng văn bản đến sản xuất thực tiễn, mọi hoạt động được số hóa, được truy xuất toàn diện).

Thứ sáu, xây dựng cơ chế chính sách để hỗ trợ và thúc đẩy các mô hình hợp tác hiệu quả của 3 Nhà “Nhà nước, Nhà trường và Doanh nghiệp”.

Thứ bảy, chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, lành nghề để làm chủ KHCN.

Thứ tám, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tiếp nhận chuyển giao các thành tựu KHCN của thế giới vào ứng dụng trong sản xuất tại Việt Nam.

leftcenterrightdel
GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam giới thiệu về hệ sinh thái Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Học viên Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Dương Triều. 

Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nhìn từ Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Tại Hội nghị, GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã giới thiệu về hệ sinh thái Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Học viên Nông nghiệp Việt Nam, nơi mọi ý tưởng đều có môi trường để nảy mầm, mọi nghiên cứu đều có cơ hội đi vào thực tiễn, và mọi cá nhân đều được khuyến khích đóng góp vào sự phát triển chung.

Theo đó, Học viện luôn coi con người là trung tâm. Nhiều chính sách đã được triển khai nhằm thu hút, khích lệ đội ngũ nhà khoa học và giảng viên đam mê nghiên cứu. Với gần 1.400 cán bộ, trong đó hơn 300 GS, PGS, TS được đào tạo tại các quốc gia có nền khoa học tiên tiến, đây chính là nguồn năng lượng nội sinh quan trọng nhất để thúc đẩy đột phá khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Học viện chú trọng đầu tư hạ tầng nghiên cứu – công nghệ. Hiện Học viện có 6 phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO, hàng ngàn chỉ tiêu phân tích phục vụ nông nghiệp – môi trường, cùng hơn 80 mô hình thực hành nghiên cứu và mô hình trải nghiệm.

Học viện luôn coi thúc đẩy nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ trọng tâm, với nhiều cơ chế đột phá về lương, chính sách và đặt hàng nhiệm vụ để các nhóm nghiên cứu mạnh phát huy tối đa năng lực.

Học viện đẩy mạnh thương mại hóa và chuyển giao công nghệ. Thông qua VNUA Tech-Mart, sàn giao dịch công nghệ AgroMart, các mô hình doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và mạng lưới trên 200 doanh nghiệp – hợp tác xã, hoạt động chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ ngày càng sôi động. Đây được xem là mắt xích quan trọng để hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 57 trong giai đoạn mới.

"Học viện đầu tư phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh về dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và nông nghiệp số; đồng thời ứng dụng công nghệ số trong quản trị, đào tạo, nghiên cứu, hợp tác quốc tế, dịch vụ sinh viên và các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp. Chuyển đổi số đã len sâu vào mọi lĩnh vực, góp phần tăng tốc và nâng chất các hoạt động của Học viện", GS.TS Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

Cũng tại Hội nghị, nhiều viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có những đề xuất để thúc đẩy khoa học công nghệ, coi đó là động lực để phát triển.

leftcenterrightdel
 Bộ trưởng Trần Đức Thắng ghi cảm nhận tại phòng truyền thống của Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Dương Triều.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh, chưa bao giờ giáo dục và khoa học được quan tâm như hiện nay. Việc Bộ Chính trị liên tiếp ban hành Nghị quyết 57 về khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo và Nghị quyết 71 về phát triển giáo dục và đào tạo là minh chứng rõ ràng. Khi nghị quyết được ban hành, chính sách phải đi theo; và các chính sách này đang, sẽ tiếp tục được điều chỉnh để phù hợp thực tiễn.

Bộ trưởng cho biết những đề xuất của các nhà khoa học tại hội nghị, từ cơ chế đặt hàng, thủ tục nghiệm thu đến tổ chức triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu, đều sẽ được Bộ nghiên cứu sửa đổi theo hướng “đơn giản hơn, thuận lợi hơn, chủ động hơn”. Nguồn lực cho khoa học - công nghệ cũng sẽ được bố trí “lớn hơn rất nhiều”, mang lại lợi ích thiết thực cho các trường và viện nghiên cứu, cả về vật chất lẫn vinh danh.

"Báo cáo tại Hội nghị cho thấy ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện có 11.427 cán bộ tại các trường, viện; 21 tổ chức khoa học - công nghệ; 34 đơn vị đào tạo; đang quản lý 163.000 ha đất – tương đương 0,5% diện tích cả nước. Đây là “tài sản vô cùng lớn” của quốc gia, là nền tảng cho việc nghiên cứu tạo ra giống mới, quy trình mới, công nghệ mới phục vụ người dân và nền kinh tế", Bộ trưởng nhấn mạnh.

Trong nhiều năm, kinh phí nghiên cứu của Bộ luôn thuộc nhóm cao, bình quân 1.000 tỉ đồng/năm. Con số này đã giúp ngành tạo ra hàng nghìn giống cây trồng, vật nuôi mới; quy trình, chế phẩm sinh học; các công nghệ tưới - bón tiên tiến… góp phần đưa nông nghiệp Việt Nam từ thiếu đói đến đủ ăn, ăn ngon, ăn sạch, nuôi sống hơn 100 triệu dân và dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu 70 tỉ USD năm 2025 (năm 2024 là 62,5 tỉ USD). Nông nghiệp tiếp tục duy trì mức xuất siêu khoảng 20 tỉ USD.

leftcenterrightdel
 Bộ trưởng Trần Đức Thắng ấn tượng với các sản phẩm khoa học công nghệ của Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Khương Trung.

Nói về mục tiêu tăng trưởng 4% của nông nghiệp năm 2025 trong bối cảnh diện tích đất giảm, biến đổi khí hậu tác động mạnh, Bộ trưởng cho rằng đây là nỗ lực rất lớn. Bộ trưởng khẳng định phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là sứ mệnh chính trị của ngành để thực hiện Nghị quyết 57 và 71 trong giai đoạn mới.

Để đạt được tăng trưởng, chỉ có hai hướng, đó là “Tăng năng suất và phải tăng gấp hai lần” và “Tăng giá trị sản phẩm.” Ông đưa ví dụ: nho Nhật có thể đạt vài chục đến gần 100 USD/kg trong khi nho Việt Nam chỉ khoảng 5 USD/kg; một ha lúa chỉ đạt trên dưới 100 triệu đồng/năm nhưng có cây trồng có chất lượng cao khác đạt tới 20 tỉ đồng/ha/năm. Bên cạnh đó, lĩnh vực thủy sản được xác định là không gian phát triển mới, với trọng tâm chuyển từ khai thác sang nuôi biển công nghiệp quy mô lớn. Lâm nghiệp cũng đặt ra bài toán “người sống nhờ rừng phải sống tốt hơn”, bởi 1 ha rừng trồng hiện chỉ đạt khoảng 17 triệu đồng/năm.

Với những vấn đề trên, Bộ trưởng đề nghị các cơ sở đào tạo và nghiên cứu: Gửi ngay trong tháng 11 đề xuất cụ thể về thiết bị cần đầu tư phục vụ định hướng nghiên cứu lớn. Bộ sẽ xem xét đưa vào Kế hoạch 2630 để triển khai từ đầu 2026. Mạnh dạn đề xuất nghiên cứu chế biến sâu khoáng sản, nhất là đất hiếm để tạo ra nam châm vĩnh cửu, vật liệu cho pin mặt trời hoặc UAV. Đây là “đề tài lớn nhưng khả thi”, và Bộ kỳ vọng một trường hoặc viện sẽ đứng ra đăng ký thực hiện.

Trong thời gian tới, Bộ trưởng nêu rõ bốn định hướng lớn lớn cho các Viện, Trường, các nhà khoa học, giáo dục của ngành tập trung: Các viện, trường phải là trung tâm tri thức, hạt nhân nghiên cứu chiến lược, đưa ra giống cây - con mới, nghiên cứu kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, quản lý tài nguyên gắn với biến đổi khí hậu.

Đẩy mạnh liên kết nhà nước - viện trường - doanh nghiệp, có thể thí điểm mô hình “trường trong doanh nghiệp - doanh nghiệp trong trường/viện”.

Sửa ngay thông tư về đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn; hoàn thiện cơ chế đặt hàng 2026 hơn 1.000 tỉ đồng. Sắp xếp tổ chức bộ máy viện, trường, ổn định nơi làm tốt; sắp xếp nơi yếu nhưng không giảm chức năng nhiệm vụ. Chỉ xem xét trường quá yếu, tuyển sinh thấp.

Tăng cường hợp tác quốc tế, tận dụng đề xuất hợp tác từ nhiều nước như Bulgaria; phát huy mô hình xuất khẩu công nghệ sản xuất nông nghiệp như Việt Nam đã làm hiệu quả tại Cuba.

https://danviet.vn/