Cá nâu Scatophagus argus là loài cá rộng muối, có thể sống trong môi trường nước với độ mặn dao động từ 0-35‰. Cá nâu được tìm thấy ở khu vực cửa sông, dọc ven biển, rừng ngập mặn và đầm lầy ven biển. Chúng phân bố rộng ở khu vực ven biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Cá nâu có giá trị cao về mặt dinh dưỡng và giải trí ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Hiện nay, nhu cầu giống cá nâu ở Việt Nam rất lớn, trải dài trên toàn bộ phạm vi địa lý của Việt Nam, từ Bắc vào Nam. Việc sản xuất thành công cá nâu giống nhân tạo đã được thực hiện thành công trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản, dinh dưỡng cá nâu. Tuy nhiên, số lượng này chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ, dưới 0,5 % nhu cầu giống của các trại nuôi cá biển tại Việt Nam. Vấn đề trong thực tiến sản xuất giống nhân tạo cá nâu hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam là làm thế nào để đạt được số lượng trứng thụ tinh cùng một thời điểm càng nhiều càng tốt để sản xuất theo quy mô thương mại (tức là thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh tự nhiên cùng lúc nhiều cặp bố mẹ).

Ngoài phương pháp thụ tinh nhân tạo bằng hình thức ghép cặp tự nhiên cá bố mẹ, phương pháp vuốt trứng và tinh trùng để tiến hành thụ tinh ở cá đã được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, thao tác vuốt trứng và tinh trùng thường cho thấy những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe đàn cá bố mẹ sau khi tham gia sinh sản. Ngoài ra, hiện tượng trứng qua giai đoạn cửa sổ thụ tinh (overripe eggs) khi vuốt là một trong những yếu tố hạn chế sự thành công của thụ tinh nhân tạo.

Chính vì những lý do trên, nhóm tác giả thuộc khoa Thủy sản của Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế đã thực hiện đề tài Nghiên cứu thử nghiệm các phương pháp thụ tinh trong sinh sản nhân tạo cá nâu Scatophagus argus nhằm mục đích xác định được phương pháp thụ tinh tối ưu trong quy trình sản xuất giống cá nâu nhân tạo trong tổng số 18 cặp cá bố mẹ đã được lựa chọn tham gia sinh sản dựa trên mức độ thành thục tuyến sinh dục của cá.

Cá nâu cái được tiêm bằng hormone LHRH-a 2 lần cách nhau 24 giờ (20 và 50 µg/ kg), trong khi đó cá đực được tiêm một lần bằng hormone HCG (200 IU/kg) cùng với lần tiêm thứ hai ở cá cái. Sau khi tiêm kích thích sinh sản, cá được lựa chọn ngẫu nhiên chia thành ba nhóm; Nhóm 1: 6 cặp tham gia thụ tinh tự nhiên trong bể composite; Nhóm 2: 6 cặp tham gia thụ tinh tự nhiên được bố trí trong lồng vải 6m3 đặt tại nơi nuôi vỗ cá bố mẹ và Nhóm 3: 6 cặp tham gia thụ tinh bằng phương pháp vuốt trứng và tinh trùng.

leftcenterrightdel
 

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ cá sinh sản ở nhóm 1 là 66,7% và nhóm 2 đạt hơn 83,3% nhưng tỷ lệ trứng thụ tinh là 0%. Đối với cá ở nhóm 3, tỷ lệ cá sinh sản chỉ đạt 83,3% và tỷ lệ trứng thụ tinh khá cao 86,2%. Điều này cho thấy thụ tinh bằng phương pháp vuốt trứng và tinh trùng là phương pháp tối ưu trong sinh sản nhân tạo cá nâu tính đến thời điểm hiện tại.

leftcenterrightdel
 

Thông tin chi tiết tại: https://tapchi.vnua.edu.vn/wp-content/uploads/2024/03/tap-chi-so-3.6.pdf

Đào Hương - NXB Học viện